Câu chuyện của ông Giàng A Vừ - Phó chủ tịch
UBND huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) - là một ví dụ. Do chương trình cung cấp nước
sạch được nhà nước hỗ trợ, nên nhiều người dân ở Mù Cang Chải cứ mạnh ai nấy
dùng. Nhà trên cao mở nước vô tội vạ, khiến nhà dưới thấp không có nước dùng.
Vòi nước cũng thường xuyên bị hư hại bởi người dùng cho rằng, đó không phải của
nhà mình, không cần giữ gìn, hỏng đã có “ông nhà nước”. Hay như tình trạng đã
từng xảy ra ở thôn Pá Liềng – thôn đặc biệt khó khăn thuộc xã Phiêng Phằn,
huyện Mai Sơn (Sơn La). Nhiều công trình đơn giản như cầu cống liên thôn, người
dân đều có thể tự làm được, nhưng chính quyền lại giao cho nhà thầu. Nhà thầu
làm xong rút đi, hết thời gian bảo trì, chẳng ai chịu trách nhiệm. Công trình
dần trở thành vô tác dụng.
Từng nhiều năm giao theo dõi, quản lý thực
hiện chính sách dân tộc, bà Bế Thị Hồng Vân, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách dân
tộc (UBDT) - chia sẻ, bà con rất cảm động khi được nhận nhà ở “cấp
không”. Bởi nếu không có sự hỗ trợ như vậy của nhà nước, rất có thể nhiều hộ
gia đình sẽ mãi cảnh “màn trời chiếu đất”. Vậy nhưng, 4 năm sau khi trao nhà,
quay lại kiểm tra, bà Vân rất bất ngờ bởi nhìn cảnh nhà cửa bị xuống cấp trầm
trọng. “Đồng bào không nghĩ đó là ngôi nhà của mình mà là nhà của Chính phủ cho
để ở, nên việc sửa chữa Chính phủ vẫn sẽ tiếp tục hỗ trợ. Đồng bào vẫn bị động,
chưa có ý thức cùng Chính phủ duy trì sự hỗ trợ đo” - bà Vân nhìn nhận.
Rõ ràng, quy trình làm chính sách dành cho
đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay là từ trên xuống và thiếu sự gắn kết, đồng
bộ về chiến lược. Cán bộ khi đi khảo sát để xây dựng chính sách vẫn mang tính
chủ quan của người làm chính sách. Bản thân người xây dựng chính sách cố thủ
với định kiến: đồng bào là những đối tượng “thiếu hiểu biết”, “lạc hậu” và “cần
được trợ giúp” (!?). Do đó, mục tiêu chương trình mang tính áp đặt, không cho
đồng bào sự lựa chọn. Bản thân đồng bào đã vốn dĩ thiếu tự tin, khi được “cho
không” một cách áp đặt, họ lại càng thụ động đối với việc tham gia trong tất cả
các khâu xây dựng, thực hiện chính sách.
Thực tế trên cho thấy, khi xây dựng những
chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số cần phải biết phát huy nội lực và sức
mạnh cộng đồng, trong đó có việc trao cho đồng bào tiếp cận cơ hội. Cố gắng làm
sao để người dân không “bị động” thụ hưởng chính sách mà phải là chủ thể cùng
tham gia xây dựng và triển khai thực hiện chính sách.
Rõ ràng, “của cho” quan trọng, nhưng “cách
cho” còn quan trọng hơn nhiều. Bởi lẽ, chỉ những công trình “dân cần, dân biết,
dân bàn, dân đóng góp, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng lợi” thì mới mong có
được hiệu quả cao nhất và thời gian sử dụng bền vững nhất.