Không được kỳ thị, trù dập người tố cáo hành vi vi phạm doping
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư 01/2023/TT-BVHTTDL ngày 21/02/2023 sửa đổi Thông tư 17/2015/TT-BVHTTDL về phòng, chống doping trong hoạt động thể thao
Theo đó, hành vi vi phạm Bộ luật phòng, chống doping thế giới được quy định như sau:
(1) Có chất bị cấm hoặc các chất chuyển hóa hoặc các dấu vết của chất bị cấm trong mẫu xét nghiệm của vận động viên.
(2) Sử dụng chất bị cấm hoặc phương pháp bị cấm.
(3) Lảng tránh, từ chối hoặc bỏ lỡ việc lấy mẫu thử mà không phải vì lý do bất khả kháng sau khi có thông báo.
(4) Vi phạm các yêu cầu liên quan đến sự có mặt của vận động viên để kiểm tra doping ngoài thi đấu.
(5) Làm sai lệch hoặc gây cản trở đối với bất kỳ công đoạn nào của việc kiểm tra doping.
(6) Sở hữu chất bị cấm hoặc phương pháp bị cấm.
(7) Buôn bán chất bị cấm hoặc phương pháp bị cấm.
(8) Cho vận động viên uống, sử dụng chất bị cấm hoặc phương pháp bị cấm trong thi đấu hoặc ngoài thi đấu; hỗ trợ, khuyến khích, giúp sức, sai khiến, bao che hoặc dính líu đến bất kỳ hành vi đồng lõa nào khác vi phạm quy định về phòng, chống doping.
(9) Đồng lõa, bao che cho một hoặc nhiều hành vi (1) đến (8).
(10) Vận động viên có liên hệ về chuyên môn thể dục thể thao với huấn luyện viên, người hướng dẫn, bác sĩ hoặc bất kỳ ai đang trong thời gian bị kỷ luật do vi phạm quy định về phòng, chống doping.
(11) Kỳ thị, trù dập người tố cáo hành vi vi phạm doping (Nội dung mới bổ sung)
Tại Điều 7 Thông tư 17/2015/TT-BVHTTDL quy định về thẩm quyền yêu cầu vận động viên kiểm tra doping như sau:
- Tổng cục Thể dục thể thao yêu cầu kiểm tra doping đối với mọi vận động viên.
- Ban tổ chức giải thi đấu thể thao yêu cầu kiểm tra doping đối với vận động viên tham gia giải đấu.
- Ủy ban Olympic Việt Nam, Hiệp hội Paralympic Việt Nam, Liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc gia, đơn vị sử dụng vận động viên yêu cầu kiểm tra doping vận động viên thuộc quyền quản lý.
Căn cứ Điều 8 Thông tư 17/2015/TT-BVHTTDL quy định về việc lấy mẫu xét nghiệm doping như sau:
- Trung tâm Doping và Y học thể thao có trách nhiệm sau:
+ Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện lấy mẫu xét nghiệm doping;
+ Việc lấy mẫu, bảo quản mẫu và xét nghiệm doping được thực hiện theo quy trình kỹ thuật của Tổ chức phòng, chống doping thế giới.
- Người được cơ quan có thẩm quyền giao trách nhiệm lấy mẫu xét nghiệm doping phải có chứng nhận đạt yêu cầu về chuyên môn kỹ thuật lấy mẫu xét nghiệm doping do Tổ chức phòng, chống doping thế giới hoặc Trung tâm Doping và Y học thể thao cấp.
Tại Điều 9 Thông tư 17/2015/TT-BVHTTDL quy định về việc xử lý kết quả xét nghiệm doping như sau:
- Trung tâm Doping và Y học thể thao lưu giữ và quản lý thông tin về kết quả xét nghiệm doping theo các tiêu chuẩn kỹ thuật của Tổ chức phòng, chống doping thế giới.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có kết quả xét nghiệm doping, Trung tâm Doping và Y học thể thao thông báo bằng văn bản kết quả xét nghiệm đến:
+ Tổng cục Thể dục thể thao;
+ Cơ quan, tổ chức yêu cầu kiểm tra doping, vận động viên, đơn vị quản lý vận động viên và liên đoàn thể thao quốc gia quản lý vận động viên đó.