Khi người có mức lương như trên thôi việc thì mức trợ cấp thất nghiệp nhận được có bị khống chế trong khung nào đó không hay vẫn được nhận 60% lương bình quân của 6 tháng trước đó cộng dồn?
Về vấn đề này, BHXH Việt Nam trả lời ông Hải như sau:
Tại Khoản 2 Điều 58 Luật việc làm số 38/2013/QH13 quy định: “Người lao động đóng BHTN theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương tháng đóng BHTN là tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc thực hiện theo quy định của Luật BHXH. Trường hợp mức tiền lương tháng đóng BHTN cao hơn 20 tháng lương tối thiểu vùng thì mức tiền lương tháng đóng BHTN bằng 20 tháng lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật Lao động tại thời điểm đóng BHTN”.
Đối chiếu với các quy định trên, trường hợp của Trưởng phòng Công ty ông có mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là 25.000.000 đồng/tháng (cao hơn 20 lần lương cơ sở theo quy định tại Nghị định số 66/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ, nhưng thấp hơn 20 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định tại Nghị định số 103/2014/NĐ-CP ngày 11/11/2014 của Chính phủ) thì tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH bằng 23 triệu đồng/tháng, tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHTN bằng 25 triệu đồng/tháng. Do đó, việc truy thu BHTN như vậy là đúng quy định.
Theo quy định tại Điều 50 Luật Việc làm số 38/2013/QH13 thì mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật Lao động đối với người lao động đóng BHTN theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.
Theo Cổng thông tin điện tử Chính phủ