Thông tư nêu rõ, việc phân chia nhóm mỏ thăm dò được thực hiện trên cơ sở hình dạng, kích thước thân cát, mức độ phức tạp về cấu trúc địa chất mỏ, địa hình đáy biển, mức độ biến đổi chiều dày và thành phần hạt, điều kiện địa chất, khai thác và các chỉ số định lượng đánh giá mức độ biến đổi của các thông số khác.
Mỏ cát biển được phân chia thành 03 nhóm mỏ:
- Nhóm mỏ đơn giản (nhóm mỏ I)
+ Cấu tạo địa chất đơn giản. Hệ số biến đổi chu vi (µ) nhỏ hơn 1,4; hệ số biến đổi chiều dày (Vm) nhỏ hơn 40%; hệ số biến đổi thành phần hạt (Vc) nhỏ hơn 40% và hệ số chứa cát (Kp) trên 0,8 đến 1,0.
+ Quy mô lớn, chiều dài thân cát lớn hơn 10 000 m, chiều rộng thân cát tương đối ổn định lớn hơn 1 000 m, hình dạng thân cát đơn giản và có đáy tương đối bằng phẳng.
- Nhóm mỏ tương đối phức tạp (nhóm mỏ II)
+ Cấu tạo địa chất tương đối phức tạp. Hệ số biến đổi chu vi (µ) từ 1,4 đến 1,6; hệ số biến đổi chiều dày (Vm) từ 40 đến 100%; hệ số biến đổi thành phần hạt (Vc) từ 40% đến 100% và hệ số chứa cát (Kp) từ 0,6 đến 0,8.
+ Quy mô trung bình, chiều dài thân cát từ 5 000 m đến 10 000 m, chiều rộng thân cát không ổn định từ 300 m đến 1 000 m, hình dạng thân cát tương đối phức tạp.
- Nhóm mỏ phức tạp (nhóm mỏ III)
+ Cấu tạo địa chất phức tạp. Hệ số biến đổi chu vi (µ) từ 1,6 đến 1,8; hệ số biến đổi chiều dày (Vm) từ 100 đến 150%; hệ số biến đổi thành phần hạt (Vc) từ 100 đến 150% và hệ số chứa cát (Kp) từ 0,4 đến 0,6. Các thân cát hẹp, có sự xen kẽ các khoảnh sét, đá, tảng.
+ Quy mô trung bình, chiều dài thân cát nhỏ hơn 5 000 m, chiều rộng thân cát không ổn định nhỏ hơn 300 m, hình dạng thân cát phức tạp.
* Lưu ý: Thông tư 14/2024/TT-BTNMT áp dụng đối với các cơ quan quản lý nhà nước về địa chất, khoáng sản; các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thăm dò, đánh giá trữ lượng, tài nguyên các mỏ cát biển.
Thông tư 14/2024/TT-BTNMT có hiệu lực từ ngày 15/10/2024.