Người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 được phép làm thêm tối đa 60 giờ trong 01 tháng?
- Từ ngày 01/04/2022, người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 được phép làm thêm tối đa 60 giờ trong 1 tháng?
- Có phải mọi đối tượng người lao động đều được phép làm thêm giờ trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19?
- Một số lưu ý khi người sử dụng lao động tổ chức cho người làm thêm giờ trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 là gì?
Từ ngày 01/04/2022, người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 được phép làm thêm tối đa 60 giờ trong 1 tháng?
Theo hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15 về số giờ làm thêm trong 01 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 như sau:
"Điều 2. Số giờ làm thêm trong 01 tháng
Trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 01 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 01 tháng."
Theo đó, với trường hợp người sử dụng lao động được để cho người lao động của mình làm thêm tối đa 300 giờ trong 01 năm thì ngoài điều kiện là người sử dụng lao động phải có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động, còn phải đáp ứng điều kiện số giờ làm thêm trong 01 tháng của người lao động đó là trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ. Như vậy, định mức tối đa số giờ làm thêm của người lao động trong 01 tháng được pháp luật cho phép là 60 ngày.
Người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 được phép làm thêm tối đa 60 giờ trong 01 tháng?
Có phải mọi đối tượng người lao động đều được phép làm thêm giờ trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19?
Theo hướng dẫn tại Điều 1 Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15 như sau:
"Điều 1. Số giờ làm thêm trong 01 năm
1. Trường hợp người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ trong 01 năm, trừ các trường hợp sau đây:
a) Người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi;
b) Người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51 % trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
c) Người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;
d) Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;
đ) Lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
2. Không áp dụng khoản 1 Điều này đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 107 của Bộ luật Lao động."
Theo đó, nếu người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì người lao động có thể làm thêm giờ nhưng không phải mọi trường hợp người lao động đều có thể làm thêm giờ. Các trường hợp người lao động không được làm thêm giờ bao gồm các đối tượng sau:
- Người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi;
- Người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51 % trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;
- Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;
- Lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Tuy nhiên, nếu người lao động tại các trường hợp nêu trên làm việc trong một số ngành, nghề, công việc dưới đây thì vẫn được phép làm thêm giờ theo quy định pháp luật, cụ thể:
- Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản;
- Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước;
- Trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời;
- Trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước, do hậu quả thời tiết, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất;
Một số lưu ý khi người sử dụng lao động tổ chức cho người làm thêm giờ trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 là gì?
Người sử dụng lao động khi tổ chức cho người lao động làm thêm giờ trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 phải lưu ý tuân thủ pháp luật về lao động, phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và đảm bảo thực hiện các chế độ phúc lợi bảo đảm cho người lao động có điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động theo hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15 cụ thể như sau:
"Điều 3. Tổ chức thực hiện
1. Việc thực hiện quy định về số giờ làm thêm tại Nghị quyết này phải tuân thủ đầy đủ các quy định khác có liên quan của Bộ luật Lao động.
2. Khi tổ chức làm thêm giờ quy định tại khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết này, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại khoản 4 Điều 107 của Bộ luật Lao động.
3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nâng cao năng suất lao động và các biện pháp khác nhằm giảm thiểu việc làm thêm giờ; trong trường hợp phải làm thêm giờ, người sử dụng lao động thực hiện các chế độ phúc lợi bảo đảm cho người lao động có điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động."
Bùi Ngọc Mai
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về Covid-19 có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Giá trị chứng khoán tính khấu trừ khi trích lập dự phòng rủi ro được xác định như thế nào theo quy định pháp luật?
- Kiểm tra thực tế hàng hóa theo đề nghị của Chi cục Hải quan nơi đăng ký tờ khai hải quan đối với hàng hóa nào?
- Tiến hành xác định diện tích đất nào trong kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện theo Luật Đất đai mới?
- Hồ sơ hoàn thuế thu nhập cá nhân khi ủy quyền cho công ty quyết toán thuế TNCN là hồ sơ thuộc diện hoàn thuế trước đúng không?
- Quyết định trưng dụng đất có được ủy quyền không? Cơ quan nào sẽ quyết định bồi thường thiệt hại do trưng dụng đất gây ra?