Theo nhiều chuyên gia, quy định về lĩnh vực này còn rất lỏng lẻo, chưa chi tiết, cụ thể, cần phải bổ sung…
Tháng 9-2011, đã có 22 hộ dân ở TP.HCM gửi đơn đến TAND một quận tại
TP.HCM khởi kiện Công ty TNHH Đầu tư Phát triển nhà Q. yêu cầu giải
quyết các vấn đề liên quan đến chất lượng nhà ở và thanh toán lãi chậm
giao căn hộ. Sau đó TAND quận này đã chính thức nhận đơn kiện của một
số hộ dân.
Cãi nhau về phí dịch vụ, hầm để xe...Theo nội dung đơn kiện, các hộ dân than phiền ngoài việc giao nhà chậm
tiến độ thì chất lượng của căn hộ rất tệ. Chẳng hạn, vật tư trong hợp
đồng là những loại đắt tiền, thiết kế “chuẩn” nhưng khi giao căn hộ thì
không đúng như cam kết. Hệ thống thoát nước chung của chung cư bị nghẹt
liên tục, hệ thống điều hòa bị thiếu hụt, không đủ chỗ đậu xe hơi, các
vấn đề dân sinh khác cũng chưa đảm bảo...
Cũng trong năm 2011, xảy ra một vụ tranh chấp tầng hầm để xe chung cư T.
(Hà Nội). Chủ đầu tư khẳng định bãi giữ xe thuộc sở hữu của mình và đơn
phương áp đặt mức phí trông giữ xe ô tô, các cư dân ở đây lại cho rằng
diện tích này thuộc sở hữu của mình và yêu cầu quyền được gửi xe với mức
phí do UBND TP quy định. Phải đến sau khi Bộ Xây dựng vào cuộc thì mọi
tranh cãi mới dịu xuống. Theo đó, Bộ Xây dựng khẳng định chi phí xây
dựng tầng hầm được chủ đầu tư tính riêng, không phân bổ vào giá bán các
căn hộ.
Chung cư Tản Đà, quận 5, TP.HCM đã từng xảy ra tranh chấp về phí giữ xe ở tầng hầm. Ảnh: HTD |
Một vụ tranh chấp khác xảy ra tại tòa nhà K., một chung cư cao cấp ở Hà
Nội. Hai bên chủ đầu tư và người mua căn hộ đã “cãi nhau” ầm ĩ về tiền
phí dịch vụ chung cư. Các hộ dân than chủ đầu tư đòi phí quản lý căn hộ,
phí trông giữ ô tô, xe máy quá cao so với quy định của TP và công trình
chưa hoàn thiện thì đã thu phí. Chẳng hạn quản lý đã thu 1.462.000
đồng/ô tô/tháng trong khi quy định của TP chỉ là 875.000 đồng/ô
tô/tháng. Phía chủ đầu tư thì khăng khăng nại lý do rằng trước đó mức
phí này đã được thỏa thuận trong hợp đồng, được các hộ dân đồng ý...
Luật còn bỏ lửngMới đây, trong buổi tọa đàm giữa Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) với
Đoàn Luật sư TP.HCM, thực trạng trên đã được mổ xẻ khá kỹ.
Theo luật sư Nguyễn Văn Hậu (Trưởng ban Tuyên truyền Hội Luật gia
TP.HCM), Bộ luật Dân sự (BLDS) hiện hành không điều chỉnh sở hữu chung
trong nhà chung cư bằng các quy định mang tính nguyên tắc trong khi thực
tế đã phát sinh nhiều tranh chấp phức tạp. Cụ thể, BLDS có 13 điều quy
định sở hữu chung về tài sản nhưng chỉ có một điều (Điều 225) dành cho
sở hữu chung trong nhà chung cư. Bản thân điều luật chỉ quy định “là
phần diện tích, trang thiết bị dùng chung trong nhà chung cư, các chủ sở
hữu trong nhà chung cư có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản
lý và sử dụng thiết bị chung”. Vậy phần sở hữu nào được coi là phần sở
hữu chung, thiết bị nào là chung, phần sở hữu này được bố trí ở khu vực
nào trong chung cư? Khi mua, bán căn hộ, người dân có được quyết định
đến phần diện tích được coi là sở hữu chung hay không?
Theo nhiều chuyên gia khác, Luật Nhà ở và Quy chế quản lý sử dụng chung
cư năm 2008 của Bộ Xây dựng quy định liệt kê phần sở hữu chung là: “Phần
còn lại của nhà chung cư ngoài phần thuộc sở hữu riêng. Không gian và
hệ thống kết cấu chịu lực, trang thiết bị kỹ thuật dùng chung gồm khung
cột, tường chịu lực, tường bao, sàn, mái, sân thượng, hành lang, thang
máy, đường thoát hiểm, nơi để xe, hệ thống cấp điện, nước, gas và các
phần khác không thuộc sở hữu riêng của căn hộ nào”. Tuy nhiên, phần diện
tích tầng hầm, tầng lửng, tầng trệt là tài sản chung hay riêng thì chưa
được luật liệt kê. Trong khi đó, đã có nhiều vụ tranh chấp về nhu cầu
tất yếu mà người sống trong chung cư phải sử dụng là tầng hầm để xe.
Thực tế để sử dụng được hầm để xe, hầu hết chủ căn hộ phải thương lượng
với chủ đầu tư để thuê lại và phải chịu mức giá bất lợi.
Theo luật sư Phan Trung Hoài (Đoàn Luật sư TP.HCM), quy định về sở hữu
chung trong nhà chung cư phải được xây dựng lại cho cụ thể, dễ hiểu để
tránh tranh chấp phát sinh. Chẳng hạn, ngoài hầm để xe thì phần khuôn
viên được coi là sở hữu chung nhưng chủ đầu tư biến thành căn tin để
kinh doanh thì giải quyết ra sao? Hoặc chủ đầu tư tự ý cải tạo tầng
thượng chung cư thành diện tích văn phòng cho thuê mà không tham khảo ý
kiến của các hộ dân... “Mọi chuyện chỉ rạch ròi khi cơ quan có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận nói rõ những phần trên là sở hữu chung hay
riêng” - ông Hoài nhấn mạnh.
Còn luật sư Phan Tự Lập (Đoàn Luật sư TP.HCM) đề xuất thay vì luật gọi
là chung cư thì phải gọi là tòa nhà chung cư. Khi ấy người ta sẽ quan
niệm toàn bộ phần sở hữu chung là thuộc tòa nhà, không tách bạch phần
căn hộ sinh sống và phần kinh doanh, phần thu phí liên quan đến tòa nhà.
Tất cả phần không thuộc căn hộ liên quan đến tòa nhà chung cư phải là
sở hữu chung của cộng đồng sống trong đó.
Cần có luật chung cư?
Có ý kiến đề nghị nên ban hành luật chung cư để quy định chi tiết về sở
hữu chung, riêng vì tương lai sẽ có rất nhiều tranh chấp liên quan. Tuy
nhiên, nhiều người lại cho rằng không nên bỏ Điều 225 BLDS mà chỉ cần bổ
sung, làm rõ và quy định chi tiết là ổn. Theo đó, tài sản chung cần
được hiểu là toàn bộ phần diện tích trang thiết bị dùng chung trong tòa
nhà phục vụ cho nhu cầu thiết yếu mà trong cuộc sống hằng ngày các hộ
dân chung cư cần và buộc phải sử dụng. Phải hiểu một yếu tố tài sản nào
đó của khối bất động sản chung cư có chức năng phục vụ cho nhu cầu thiết
yếu của nhiều người thì không thể là sở hữu riêng của cá nhân hay đơn
vị nào...
13 tranh chấp điển hình
Các nhà chuyên môn đã liệt kê ra 13 loại tranh chấp điển hình phổ biến
liên quan đến nhà chung cư và cho rằng sắp tới có nhiều vụ kiện tụng ra
tòa:
1. Tranh chấp liên quan đến việc chủ đầu tư chưa đủ điều kiện
nhưng vẫn huy động vốn, khách hàng đòi lại tiền, chủ đầu tư không có khả
năng hoặc không muốn trả.
2. Chủ đầu tư đã khởi công dự án nhưng chậm tiến độ dẫn đến việc khách hàng đòi hủy bỏ hợp đồng hoặc đòi giảm giá tiền.
3. Khi giá nhà đất trên thị trường tăng, chủ đầu tư đòi khách hàng trả thêm tiền mới giao nhà.
4. Chủ đầu tư niêm yết giá bằng USD, khách hàng phản đối, chủ đầu tư không giao nhà hoặc khách hàng đòi hủy hợp đồng.
5. Khách hàng không chịu trả tiền đúng tiến độ, chủ đầu tư lâm vào tình trạng khó khăn tài chính, chậm tiến độ.
6. Chung cư, căn hộ không đạt chất lượng so với cam kết khiến khách hàng đòi lại tiền hoặc bồi thường thiệt hại.
7. Tranh chấp liên quan đến việc chủ đầu tư không giao giấy tờ chủ quyền nhà cho khách hàng theo cam kết và theo luật định.
8. Tranh chấp liên quan đến việc xác định nghĩa vụ và mức nộp tiền sử dụng đất.
9. Tranh chấp về phí quản lý và cách thức quản lý chung cư.
10. Tranh chấp về phần diện tích sử dụng chung giữa chủ đầu tư và người sở hữu căn hộ.
11. Tranh chấp về các vấn đề bảo trì, bảo hành chất lượng.
12. Tranh chấp về việc cung cấp dịch vụ độc quyền.
13. Tranh chấp liên quan đến cải tạo, phá dỡ chung cư cũ.
(TT tổng hợp)
DiaOcOnline.vn - Theo Pháp Luật TP