Hành vi bạo hành trẻ em có thể bị truy cứu hình sự? (Hình từ internet)
Bạo hành trẻ em hay bạo lực trẻ em là hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập; xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi và các hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh thần của trẻ em.
Tại Điều 6 Luật Trẻ em 2016, pháp luật nghiêm cấm các hành vi sau:
- Tước đoạt quyền sống của trẻ em.
- Bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
- Xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em.
Như vậy, những hành vi có yếu tố đánh đập, bạo hành trẻ em đều bị pháp luật nghiêm cấm, đó đó những ai vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Căn cứ Điều 22 Nghị định 130/2021/NĐ-CP quy định xử phạt 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi bạo lực trẻ em như sau:
+ Bắt nhịn ăn, nhịn uống, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân; bắt sống ở nơi có môi trường độc hại, nguy hiểm hoặc các hình thức đối xử tồi tệ khác với trẻ em;
+ Gây tổn hại về tinh thần, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, lăng mạ, chửi mắng, đe dọa, cách ly ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em;
+ Cô lập, xua đuổi hoặc dùng các biện pháp trừng phạt để dạy trẻ em gây tổn hại về thể chất, tinh thần của trẻ em;
+ Thường xuyên đe dọa trẻ em bằng các hình ảnh, âm thanh, con vật, đồ vật làm trẻ em sợ hãi, tổn hại về tinh thần.
- Biện pháp khắc phục hậu quả:
+ Buộc chịu mọi chi phí để khám bệnh, chữa bệnh (nếu có) cho trẻ em đối với hành vi vi phạm nêu trên;
+ Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe trẻ em đối với hành vi thường xuyên đe dọa trẻ em bằng các hình ảnh, âm thanh, con vật, đồ vật làm trẻ em sợ hãi, tổn hại về tinh thần.
Ngoài ra, đối với các trường hợp như chủ nhóm lớp mầm non hay các chức vụ tương tự sẽ bị kỉ luật tùy theo mức độ.
Ta cần hiểu, trẻ em là đối tượng yếu thế, rất dễ tổn thương và có thể chịu hậu quả nghiêm trọng hơn từ những hành vi bạo hành. Do đó, hành vi bạo hành trẻ em tùy theo mức độ mà người gây ra hoàn toàn có thể bị truy cứu hình sự, cụ thể bởi các tội sau:
- Tội cố ý gây thương tích (căn cứ Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017))
Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
Mức phạt cao nhất của tội này có thể lên đến 20 năm tù hoặc chung thân.
(Xem đầy đủ tại: Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
- Tội hành hạ người khác (căn cứ Điều 140 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017))
Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
+ Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 11% trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên.
Như vậy, hành vi bạo hành trẻ em hoàn toàn có thể bị truy cứu hình sự theo một trong các tội danh vừa nêu ở trên tùy vào mức độ vụ việc.
Nguyễn Minh Khôi