Theo ông Công phản ánh, hiện nay có đơn vị chức năng ở địa phương khi xác nhận chỉ tiêu nêu trên không đúng với tinh thần nêu tại điểm 1.4, khoản 1, Điều 5 Thông tư số 153/2011/TT-BTC ngày 11/11/2011 của Bộ Tài chính.
Ông Công dẫn chứng, cơ quan chức năng xác nhận hạn mức tính thuế là 180 m2 và diện tích đất tính thuế trong hạn mức là 180 m2 đối với thửa đất ở có diện tích là 613,2 m2 của ông A đang sử dụng trước ngày 1/1/2012 tại một phường thuộc quận Hà Đông, TP. Hà Nội mà trong Giấy chứng nhận (cấp ngày 25/10/2011) toàn bộ diện tích 613,2 m2 của thửa đất được ghi là đất ở đô thị. Hạn mức công nhận đất ở tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận đối với quận Hà Đông là 180 m2 (theo Quyết định số 58/2009/QĐ-UBND ngày 30/3/2009 của UBND TP. Hà Nội).
Ông Công hỏi, việc cơ quan chức năng xác nhận hạn mức tính thuế và diện tích đất tính thuế trong hạn mức làm căn cứ tính thuế đối với thửa đất của ông A như trên có đúng với tiết b1 điểm 1.4, khoản 1, Điều 5 Thông tư số 153/2011/TT-BTC ngày 11/11/2011 của Bộ Tài chính không?
Về vấn đề này, Cục Thuế TP. Hà Nội có ý kiến như sau:
Hạn mức đất ở tính thuế
Căn cứ khoản 2, Điều 6, Nghị định số 53/2011/NĐ-CP ngày 1/7/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp thì hạn mức đất ở tính thuế quy định như sau:
"Hạn mức đất ở làm căn cứ tính thuế đối với trường hợp đất ở đang sử dụng trước ngày 01 tháng 01 năm 2012 được xác định như sau:
a) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã có quy định về hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở và diện tích đất ở trong Giấy chứng nhận được xác định theo hạn mức công nhận đất ở thì áp dụng hạn mức công nhận đất ở để làm căn cứ tính thuế. Trường hợp hạn mức công nhận đất ở đó thấp hơn hạn mức giao đất ở hiện hành thì áp dụng hạn mức giao đất ở hiện hành để làm căn cứ tính thuế;
b) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã có quy định về hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở và diện tích đất ở trong Giấy chứng nhận được xác định theo hạn mức giao đất ở thì áp dụng hạn mức giao đất ở để làm căn cứ tính thuế. Trường hợp hạn mức giao đất ở đó thấp hơn hạn mức giao đất ở hiện hành thì áp dụng hạn mức giao đất ở hiện hành để làm căn cứ tính thuế;...".
Quy định về khai thuế
Căn cứ tiết d2, điểm 1.4, khoản 1, Điều 5 Thông tư số 153/2011/TT-BTC ngày 11/11/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp:
"d2) Trường hợp có thửa đất ở vượt hạn mức đất ở nơi có quyền sử dụng đất thì người nộp thuế được lựa chọn hạn mức đất ở tại nơi có thửa đất ở vượt hạn mức để xác định số thuế phải nộp. Phần diện tích đất ở ngoài hạn mức được xác định bằng phần diện tích vượt hạn mức của thửa đất ở nơi đã lựa chọn hạn mức cộng với phần diện tích của tất cả các thửa đất ở khác có quyền sử dụng;".
Tại Điều 16, Thông tư số 153/2011/TT-BTC quy định về khai thuế:
"1. Nguyên tắc khai thuế:
1.1. NNT có trách nhiệm khai chính xác vào Tờ khai thuế các thông tin liên quan đến NNT như: tên, số CMT, mã số thuế, địa chỉ nhận thông báo thuế; Các thông tin liên quan đến thửa đất chịu thuế như diện tích, mục đích sử dụng. Nếu đất đã được cấp Giấy chứng nhận thì phải khai đầy đủ các thông tin trên Giấy chứng nhận như số, ngày cấp, số tờ bản đồ, diện tích đất, hạn mức (nếu có).
Đối với hồ sơ khai thuế đất ở của hộ gia đình, cá nhân, UBND cấp xã xác định các chỉ tiêu tại phần xác định của cơ quan chức năng trên tờ khai và chuyển cho Chi cục Thuế để làm căn cứ tính thuế.
Đối với hồ sơ khai thuế của tổ chức, trường hợp cần làm rõ một số chỉ tiêu liên quan làm căn cứ tính thuế theo đề nghị của cơ quan Thuế, cơ quan Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm xác nhận và gửi cơ quan Thuế...".
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp xác định hạn mức tính thuế và diện tích đất ở làm căn cứ tính thuế đối với ông A nêu tại ví dụ trong nội dung ông Công hỏi, đề nghị ông căn cứ vào diện tích đất ở trong sổ đỏ được xác định theo hạn mức công nhận đất ở hay hạn mức giao đất ở và quy định về hạn mức công nhận đất ở, hạn mức giao đất ở của UBND cấp tỉnh để xác định;
Đồng thời, đề nghị ông Công liên hệ với UBND cấp xã (phường) tại nơi có thửa đất và cơ quan thuế quản lý trực tiếp để được giải đáp cụ thể.
Theo Cổng thông tin điện tử Chính phủ