TANDTC hướng dẫn về xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án (Ảnh minh hoạ)
“Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phân quyền sử dụng đất của người phải THA trong khối tài sản chung để THA thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải THA và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được THA có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phân quyền sử dụng đất của người phải THA trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được THA không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phản quyền sở hữu tài sản, phân quyền sử dụng đất của người phải THA trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.
Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Toà án”.
Tuy nhiên, tại Điểm c Khoản 2 Điều Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 hướng dẫn thực hiện khoản 1 Điều 74 Luật THADS lại quy định:
“Chấp hành viên tiến hành tự phân chia tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình; nếu vợ chồng hoặc các thành viên trong hộ gia đình không đồng ý với việc phân chia của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa phân chia tài sản chung, hết thời hạn mà họ không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo sự phân chia của Chấp hành viên.”
Như vậy, quy định tại điểm c khoản 2 Điều Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐCP và khoản 1 Điều 74 Luật THADS có những điểm chưa đồng bộ, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Bên cạnh đó, khi Chấp hành viên không có cơ sở để xác định được phần tài sản của người phải THA trong khối tài sản chung thì đã yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, hiện nay đã xảy ra 02 trường hợp:
- Trường hợp Tòa án không thụ lý với lý do Chấp hành viên không có quyền yêu cầu khởi kiện theo quy định tại Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Trường hợp Tòa án đã thụ lý nhưng Chấp hành viên không thể đáp ứng nội dung quy định về việc phải cung cấp chứng cứ để Tòa án xem xét giải quyết theo Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại cuộc họp ngày 11/11/2020, lãnh đạo Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thống nhất, về nguyên tắc phải thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật THADS. Đồng thời, Bộ Tư pháp có văn bản đề nghị TAND tối cao hướng dẫn thống nhất đối với các TAND địa phương thực hiện.
Xem chi tiết tại Công văn 263/VKSTC-V11 ban hành ngày 21/01/2021.
Công văn 263/VKSTC-V11 |
Trung Tài