Trách nhiệm vật chất trong pháp luật về lao động (Hình ảnh internet)
Trong khoa học pháp lý, trách nhiệm vật chất còn có thể hiểu theo nghĩa rộng hơn, là loại trách nhiệm phải thực hiện bằng tài sản của người vi phạm. Theo nghĩa này, trách nhiệm dân sự và một phần nội dung của trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính cũng được hiểu là trách nhiệm vật chất.
Cụ thể, đối với Bộ luật Lao động 2019 trách nhiệm vật chất được hiểu là trách nhiệm pháp lý do người sử dụng lao động áp dụng đối với người lao động bằng cách bắt họ phải bồi thường những thiệt hại về tài sản do hành vi vi phạm kỷ luật lao động gây ra.
Bồi thường thiệt hại
(1) Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, hợp đồng trách nhiệm (nếu có) hoặc theo thoả thuận giữa các bên khi thiệt hại xảy ra.
Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương với mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương thực trả hằng tháng của người lao động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.
(2) Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường hoặc nội quy lao động; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh nguy hiểm, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường.
Xử lý bồi thường thiệt hại
(1) Việc xem xét, quyết định mức bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào nhiều yếu tố như: lỗi, mức độ thiệt hại thực tế và hoàn cảnh thực tế gia đình; nhân thân và tài sản của người lao động trước khi đưa ra hội đồng kỷ luật.
(2) Trình tự, thủ tục, thời hiệu xử lý việc bồi thường thiệt hại về trách nhiệm vật chất phải được thực hiện theo quy định của Chính phủ được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020.
(3) Cũng như các loại trách nhiệm bồi thường khác, việc áp dụng trách nhiệm vật chất đối với người lao động cũng cần phải có 4 căn cứ:
- Có hành vi vi phạm kỉ luật.
- Có thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động.
- Có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra.
- Có lỗi của người vi phạm.
Khiếu nại về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất
Người bị xử lý kỷ luật lao động, bị tạm đình chỉ công việc hoặc phải bồi thường theo chế độ trách nhiệm vật chất đã bị xử lý. Nếu thấy không thỏa đáng có quyền khiếu nại với người sử dụng lao động, với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.
Trương Quang Vĩnh