Thời hạn chuyển lợi nhuận thu từ mua bán chứng khoán thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán ở nước ngoài về Việt Nam là bao lâu?
- Chuyển lợi nhuận thu từ mua bán chứng khoán ở nước ngoài về Việt Nam thông qua đâu?
- Thời hạn chuyển lợi nhuận thu từ mua bán chứng khoán thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán ở nước ngoài về Việt Nam là bao lâu?
- Nhà đầu tư mua bán chứng khoán thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán ở nước ngoài được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu thị trường không?
Chuyển lợi nhuận thu từ mua bán chứng khoán ở nước ngoài về Việt Nam thông qua đâu?
Căn cứ quy định Điều 65 Luật Đầu tư 2020 quy định về giao dịch chuyển lợi nhuận thu từ mua bán chứng khoán ở nước ngoài về Việt Nam như sau:
Mở tài khoản vốn đầu tư ra nước ngoài
1. Nhà đầu tư mở tài khoản vốn đầu tư ra nước ngoài tại một tổ chức tín dụng được phép tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
2. Mọi giao dịch chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài về Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài phải thực hiện thông qua tài khoản vốn đầu tư quy định tại khoản 1 Điều này theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
Như vậy, nhà đầu tư chuyển lợi nhuận thu từ mua bán chứng khoán ở nước ngoài về Việt Nam thông qua tài khoản vốn đầu tư được mở theo quy định pháp luật.
Thời hạn chuyển lợi nhuận thu từ mua bán chứng khoán thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán ở nước ngoài về Việt Nam là bao lâu? (Hình từ Internet)
Thời hạn chuyển lợi nhuận thu từ mua bán chứng khoán thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán ở nước ngoài về Việt Nam là bao lâu?
Tại Điều 68 Luật Đầu tư 2020 có quy định về chuyển lợi nhuận về nước như sau:
Chuyển lợi nhuận về nước
1. Trừ trường hợp giữ lại lợi nhuận theo quy định tại Điều 67 của Luật này, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam.
2. Trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này mà không chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập khác về Việt Nam thì nhà đầu tư phải thông báo trước bằng văn bản cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thời hạn chuyển lợi nhuận về nước được kéo dài không quá 12 tháng kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Trường hợp quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này mà chưa chuyển lợi nhuận về nước và không thông báo hoặc trường hợp quá thời hạn được kéo dài quy định tại khoản 2 Điều này mà nhà đầu tư chưa chuyển lợi nhuận về nước thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 67 Luật Đầu tư 2020 quy định như sau:
Sử dụng lợi nhuận ở nước ngoài
1. Nhà đầu tư được giữ lại lợi nhuận thu từ đầu tư ở nước ngoài để tái đầu tư trong trường hợp sau đây:
a) Tiếp tục góp vốn đầu tư ở nước ngoài trong trường hợp chưa góp đủ vốn theo đăng ký;
b) Tăng vốn đầu tư ra nước ngoài;
c) Thực hiện dự án đầu tư mới ở nước ngoài.
2. Nhà đầu tư thực hiện thủ tục điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài theo quy định tại Điều 63 của Luật này đối với các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này; thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài theo quy định tại Điều 61 của Luật này đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều này.
Theo quy định trên, nhà đầu tư mua bán chứng khoán thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán ở nước ngoài có thể được giữ lại lợi nhuận thu từ đầu tư ở nước ngoài để tái đầu tư.
Trong trường hợp không được giữ lại lợi nhuận thu từ đầu tư ở nước ngoài thì nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam trong 06 tháng từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
Và được kéo dài thêm không quá 12 tháng kể từ ngày hết thời hạn trên nếu nhà đầu tư thông báo trước bằng văn bản cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Nhà đầu tư mua bán chứng khoán thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán ở nước ngoài được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu thị trường không?
Căn cứ Điều 66 Luật Đầu tư 2020 quy định như sau:
Chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài
1. Nhà đầu tư được chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư khi đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Hoạt động đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận hoặc cấp phép. Trường hợp pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư không quy định về việc cấp phép đầu tư hoặc chấp thuận đầu tư, nhà đầu tư phải có tài liệu chứng minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư;
c) Có tài khoản vốn theo quy định tại Điều 65 của Luật này.
2. Việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối, xuất khẩu, chuyển giao công nghệ và quy định khác của pháp luật có liên quan.
3. Nhà đầu tư được chuyển ngoại tệ hoặc hàng hóa, máy móc, thiết bị ra nước ngoài để phục vụ cho hoạt động khảo sát, nghiên cứu, thăm dò thị trường và thực hiện hoạt động chuẩn bị đầu tư khác theo quy định của Chính phủ.
Căn cứ quy định trên thì nhà đầu tư mua bán chứng khoán thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán ở nước ngoài có thể chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu thị trường theo quy định pháp luật.
Tạ Thị Thanh Thảo
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về Chứng khoán có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Tổ chức quản lý kinh doanh nhà là tài sản công không sử dụng để ở phải thực hiện đánh giá lại hiện trạng nhà hàng năm đúng không?
- Đảng viên được miễn công tác và sinh hoạt đảng có phải làm kiểm điểm cuối năm không? Có được dự đại hội đảng viên?
- Mẫu Báo cáo tổng kết công tác thi đua khen thưởng trường mầm non cuối năm? Tải về file word mẫu báo cáo?
- Mẫu báo cáo kiểm điểm tập thể ban thường vụ cấp ủy cơ sở mới nhất? Nơi không có ban thường vụ thì kiểm điểm ban chấp hành đúng không?
- Thời hạn thực hiện quyết toán hợp đồng xây dựng sử dụng vốn đầu tư công không được vượt quá bao lâu?