Việc mua bán vàng miếng 9999 giữa cá nhân và cá nhân có phải là hành vi vi phạm quy định pháp luật hay không?

Cho tôi hỏi có phải việc mua bán vàng miếng tại các của tiệm vàng là hành vi bị cấm đúng không? Vậy nếu giữa cá nhân và cá nhân thực hiện mua bán vàng miếng 9999 với nhau thì có được xem là vi phạm pháp luật không? Câu hỏi của chị T.L từ Bình Dưong.

Cá nhân mua bán vàng miếng 9999 có đang vi phạm quy định pháp luật hay không?

Theo khoản 2 Điều 3 Nghị định 24/2012/NĐ-CP có quy định về vàng miếng như sau:

Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Vàng trang sức, mỹ nghệ là các sản phẩm vàng có hàm lượng từ 8 Kara (tương đương 33,33%) trở lên, đã qua gia công, chế tác để phục vụ nhu cầu trang sức, trang trí mỹ thuật.
2. Vàng miếng là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây được gọi là Ngân hàng Nhà nước) cho phép sản xuất hoặc vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ.
...

Như vậy, vàng miếng 9999 nói riêng và các loại vàng miếng khác nói chung là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng.

Tại Điều 12 Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng như sau:

Trách nhiệm của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng
Doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng có trách nhiệm:
1. Chỉ được phép mua, bán các loại vàng miếng quy định tại Khoản 2 Điều 3 của Nghị định này.
2. Không được phép thực hiện kinh doanh vàng miếng thông qua các đại lý ủy nhiệm.
3. Chấp hành các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, lập và sử dụng hóa đơn chứng từ.
4. Niêm yết công khai tại địa điểm giao dịch về giá mua và giá bán vàng miếng.
5. Có biện pháp và trang thiết bị bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh.
6. Tuân thủ các quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

Theo quy định trên thì cá nhân có thể thực hiện mua bán vàng miếng 9999 tại các doanh nghiệp hoặc tổ chức tín dụng được Ngân hàng nhà nước cấp phép.

Các trường hợp mua bán vàng miếng 9999 tại các cửa tiệm vàng, doanh nghiệp hoặc tổ chức tín dụng chưa được cấp phép từ Ngân hàng nhà nước sẽ được xem là hành vi vi phạm pháp luật.

Việc mua bán vàng miếng 9999 giữa cá nhân và cá nhân có phải là hành vi vi phạm quy định pháp luật hay không?

Việc mua bán vàng miếng 9999 giữa cá nhân và cá nhân có phải là hành vi vi phạm quy định pháp luật hay không? (Hình từ Internet)

Mua bán vàng miếng 9999 với các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng chưa được cấp phép thì cá nhân có thể bị xử phạt như thế nào?

Mức xử phạt đối với hành vi vi phạm hoạt động kinh doanh vàng được quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định 88/2019/NĐ-CP (sửa đổi bởi điểm b Khoản 14 Điều 1 Nghị định 143/2021/NĐ-CP) như sau:

Vi phạm quy định về hoạt động kinh doanh vàng
1. Phạt cảnh cáo đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Mua, bán vàng miếng với tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp không có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;
b) Sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán.
...
9. Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Tịch thu số vàng đối với hành vi vi phạm quy định tại các điểm a, c khoản 8 Điều này;
b) Tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng trong thời hạn từ 06 tháng đến 09 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 5 Điều này.
10. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng trong trường hợp tái phạm đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 5 Điều này.

Như vậy, cá nhân có hành vi mua bán vàng miếng 9999 với các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng chưa được cấp phép từ Ngân hàng nhà nước chỉ bị phạt cảnh cáo.

Ngoài mức phạt cảnh cáo ra thì cá nhân có hành vi mua bán vàng miếng 9999 với các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng chưa được cấp phép không phải nhận thêm hình phạt bổ sung hay phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả nào khác.

Việc mua bán vàng miếng 9999 giữa cá nhân và cá nhân có phải là hành vi vi phạm quy định pháp luật hay không?

Quyền sở hữu vàng của cá nhân được quy định tại Điều 4 Nghị định 24/2012/NĐ-CP như sau:

Trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ
1. Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật.
2. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các hoạt động kinh doanh vàng theo quy định tại Nghị định này.
3. Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.
...

Theo đó, việc sở hữu vàng của cá nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Ngoài ra, như đã nêu trên thì pháp luật chỉ nghiêm cấm các hành vi mua bán vàng miếng với các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng chưa được cấp phép kinh doanh vàng.

Tại Điều 2 Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy định đối tượng áp dụng các quy định là với tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh vàng trên lãnh thổ Việt Nam và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh vàng.

Vì vậy, với cá nhân không có hoạt động kinh doanh vàng thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của nghị định này.

Việc mua bán màng miếng 9999 hay các loại vàng miếng khác giữa cá nhân và cá nhân không có hoạt động kinh doanh vàng hiện nay chưa ràng buộc quy định pháp luật nào.

Do đó việc các cá nhân mua bán vàng miếng 9999 với nhau không vi phạm quy định pháp luật.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Vàng miếng SJC

Trần Thành Nhân

Vàng miếng SJC
Căn cứ pháp lý
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về Vàng miếng SJC có thể đặt câu hỏi tại đây.

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào