Cho phép doanh nghiệp nước ngoài được góp vốn thành lập ngân hàng liên doanh tại Việt Nam từ 14/12/2023

Tham vấn bởi Luật sư Phạm Thanh Hữu
04/11/2023 09:15 AM

Tôi muốn hỏi có phải doanh nghiệp nước ngoài không phải là ngân hàng đã được phép góp vốn thành lập ngân hàng liên doanh tại Việt Nam đúng không? – Anh Tuấn (Bình Phước)

Cho phép doanh nghiệp nước ngoài được góp vốn thành lập ngân hàng liên doanh tại Việt Nam từ 14/12/2023

Cho phép doanh nghiệp nước ngoài được góp vốn thành lập ngân hàng liên doanh tại Việt Nam từ 14/12/2023 (Hình từ Internet)

Về vấn đề này, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT giải đáp như sau:

Ngày 31/10/2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư 13/2023/TT-NHNN sửa đổi Thông tư quy định về cấp Giấy phép, tổ chức, hoạt động và hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận nội dung thay đổi của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Cho phép doanh nghiệp nước ngoài được góp vốn thành lập ngân hàng liên doanh tại Việt Nam từ 14/12/2023

Cụ thể, kể từ ngày 14/12/2023, ngân hàng liên doanh ở Việt Nam được thành lập bằng vốn góp của Bên Việt Nam (gồm tối thiểu một ngân hàng Việt Nam và tối đa một doanh nghiệp Việt Nam không phải ngân hàng) và Bên nước ngoài (gồm tối thiểu một ngân hàng nước ngoài và tối đa một doanh nghiệp nước ngoài không phải ngân hàng) trên cơ sở hợp đồng liên doanh.

Các bên thành lập phải là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.

Ngân hàng liên doanh được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên nhưng không quá 05 thành viên, trong đó một thành viên và người có liên quan không được sở hữu vượt quá 50% vốn điều lệ.

Hiện hành tại Thông tư 40/2011/TT-NHNN, ngân hàng liên doanh tại Việt Nam được thành lập bằng vốn góp của Bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và Bên nước ngoài (gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh; là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.

Như vậy, Thông tư 13/2023/TT-NHNN đã cho phép doanh nghiệp nước ngoài không phải ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam được tham gia vào việc góp vốn thành lập ngân hàng liên doanh ở Việt Nam.

Bổ sung điều kiện chuyển nhượng phần vốn góp của ngân hàng liên doanh đối với doanh nghiệp không phải ngân hàng

Theo đó, việc chuyển nhượng phần vốn góp cho tổ chức không phải là thành viên góp vốn của ngân hàng liên doanh (cụ thể là doanh nghiệp không phải ngân hàng) cần đảm bảo tỷ lệ góp vốn theo quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 2 Thông tư 40/2011/TT-NHNN và đáp ứng các điều kiện sau:

- Được thành lập theo pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài;

- Trường hợp là doanh nghiệp Nhà nước, phải được cấp có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản cho phép tham gia góp vốn vào ngân hàng liên doanh theo quy định của pháp luật;

- Trường hợp là doanh nghiệp được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, phải tuân thủ việc góp vốn theo các quy định liên quan của pháp luật;

- Có vốn chủ sở hữu tối thiểu 1.000 tỷ đồng, tổng tài sản tối thiểu 2.000 tỷ đồng trong 03 năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị chấp thuận mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp đối với phần vốn góp từ trên 1% đến dưới 5% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh hoặc có vốn chủ sở hữu tối thiểu 200 tỷ đồng, tổng tài sản tối thiểu 400 tỷ đồng trong 03 năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị chấp thuận mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp đối với phần vốn góp từ 1% vốn điều lệ trở xuống của ngân hàng liên doanh;

- Đối với doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề kinh doanh có yêu cầu vốn pháp định, phải đảm bảo vốn chủ sở hữu trừ đi vốn pháp định tối thiểu bằng số vốn góp cam kết theo số liệu từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập và không có ý kiến ngoại trừ của đơn vị kiểm toán của năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị chấp thuận mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp;

- Kinh doanh có lãi trong 03 năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị chấp thuận mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp;

- Không được dùng vốn huy động, vốn vay của tổ chức, cá nhân khác để góp vốn;

- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế và bảo hiểm xã hội theo quy định đến thời điểm nộp hồ sơ đề nghị chấp thuận mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp;

- Không phải là cổ đông sáng lập, chủ sở hữu, thành viên sáng lập, cổ đông chiến lược của tổ chức tín dụng khác được thành lập và hoạt động tại Việt Nam.

Xem thêm tại Thông tư 13/2023/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 14/12/2023.

 

Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email [email protected].

Gởi câu hỏi Chia sẻ bài viết lên facebook 2,231

Bài viết về

lĩnh vực Tiền tệ - Ngân hàng

Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, P.6, Q.3, TP.HCM
Điện thoại: (028) 3930 3279 (06 lines)
E-mail: inf[email protected]