Theo đó, đẩy nhanh phát triển nguồn điện từ
năng lượng tái tạo (thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối v.v…),
từng bước gia tăng tỷ trọng của điện năng sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo
trong cơ cấu nguồn điện.
Cụ thể, ưu tiên phát triển các nguồn thủy
điện, nhất là các dự án lợi ích tổng hợp (chống lũ, cấp nước, sản xuất điện);
nghiên cứu đưa nhà máy thuỷ điện tích năng vào vận hành phù hợp với phát triển
của hệ thống điện quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả vận hành của hệ thống điện.
Tổng công suất các nguồn thủy điện (bao gồm cả thủy điện vừa và nhỏ, thủy điện
tích năng) từ gần 17.000 MW hiện nay lên khoảng 21.600 MW vào năm 2020, khoảng
24.600 MW vào năm 2025 (thủy điện tích năng 1.200MW) và khoảng 27.800 MW vào
năm 2030 (thủy điện tích năng 2.400MW). Điện năng sản xuất từ nguồn thủy điện
chiếm tỷ trọng khoảng 29,5% vào năm 2020, khoảng 20,5% vào năm 2025 và khoảng
15,5% vào năm 2030.
Đưa tổng công suất nguồn điện gió từ mức 140
MW hiện nay lên khoảng 800 MW vào năm 2020, khoảng 2.000 MW vào năm 2025 và
khoảng 6.000 MW vào năm 2030.
Đẩy nhanh phát triển nguồn điện sử dụng năng
lượng mặt trời, bao gồm cả nguồn tập trung lắp đặt trên mặt đất và nguồn phân
tán lắp đặt trên mái nhà: Đưa tổng công suất nguồn điện mặt trời từ mức không
đáng kể hiện nay lên khoảng 850 MW vào năm 2020, khoảng 4.000 MW vào năm 2025
và khoảng 12.000 MW vào năm 2030. Điện năng sản xuất từ nguồn điện mặt trời
chiếm tỷ trọng khoảng 0,5% năm 2020, khoảng 1,6% vào năm 2025 và khoảng 3,3%
vào năm 2030.
Phát triển các nhà máy nhiệt điện với tỷ lệ
thích hợp, phù hợp với khả năng cung cấp và phân bố của các nguồn nhiên liệu.
Trong đó, khai thác tối đa nguồn than trong nước cho phát triển các nhà máy
nhiệt điện, ưu tiên sử dụng than trong nước cho các nhà máy nhiệt điện khu vực
miền Bắc. Đến năm 2020, tổng công suất khoảng 26.000 MW, sản xuất khoảng 131 tỷ
kWh điện, chiếm khoảng 49,3% điện sản xuất, tiêu thụ khoảng 63 triệu tấn than;
năm 2025, tổng công suất khoảng 45.800 MW, sản xuất khoảng 220 tỷ kWh điện,
chiếm khoảng 55% điện sản xuất, tiêu thụ khoảng 95 triệu tấn than. Do nguồn
than sản xuất trong nước hạn chế, cần xây dựng một số nhà máy nhiệt điện tại
các Trung tâm Điện lực: Duyên Hải, Long Phú, Sông Hậu, Long An v.v... sử dụng
nguồn than nhập khẩu.
Phát triển các nhà máy điện hạt nhân nhằm bảo
đảm ổn định cung cấp điện trong tương lai khi nguồn năng lượng sơ cấp trong
nước bị cạn kiệt. Cụ thể, đưa tổ máy điện hạt nhân đầu tiên vào vận hành năm
2028; đến năm 2030 nguồn điện hạt nhân có công suất 4.600 MW, sản xuất khoảng
32,5 tỷ kWh chiếm 5,7% sản lượng điện sản xuất.
Khắc phục được tình trạng quá tải, nghẽn mạch
Về định hướng phát triển lưới điện, xây dựng
và nâng cấp lưới điện, từng bước đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của lưới điện
truyền tải; đến năm 2020, lưới điện truyền tải đạt tiêu chuẩn độ tin cậy N-1
cho các thiết bị chính và bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng theo quy
định.
Khắc phục được tình trạng quá tải, nghẽn
mạch, chất lượng điện áp thấp của lưới điện truyền tải; bảo đảm cung ứng điện
với độ tin cậy được nâng cao cho các trung tâm phụ tải. Lưới điện truyền tải
500 kV được xây dựng để truyền tải điện năng từ các trung tâm điện lực lớn về
trung tâm phụ tải, liên kết các hệ thống điện miền và trao đổi điện năng với
các nước trong khu vực.
Lưới điện truyền tải 220 kV được đầu tư xây
dựng theo cấu trúc mạch vòng kép, các trạm biến áp trong khu vực có mật độ phụ
tải cao cần đảm bảo thiết kế theo sơ đồ hợp lý để đảm bảo có thể vận hành linh
hoạt. Nghiên cứu xây dựng các trạm biến áp GIS, trạm biến áp 220/22 kV, trạm
ngầm, trạm biến áp không người trực tại các trung tâm phụ tải. Ứng dụng công
nghệ lưới điện thông minh trong truyền tải điện.
Tổng vốn đầu tư của phát triển nguồn và lưới
điện (không tính các nguồn điện được đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT) giai
đoạn 2016 - 2030 khoảng 3.206.652 tỷ đồng (tương đương 148 tỷ USD).
Hoàng
Diên
Theo
Báo điện tử Chính phủ