Tổng cục Thuế hướng dẫn xử lý vi phạm về thuế với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán (Hình từ Internet)
Tổng cục Thuế ban hành Công văn 2365/TCT-DNNCN ngày 04/6/2024 xử lý vi phạm về thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán gửi Cục Thuế thành phố Hải Phòng.
Tổng cục Thuế nhận được Công văn 6277/CTHPH-NVDTPC ngày 01/12/2023 của Cục Thuế thành phố Hải Phòng về việc xử lý vi phạm về thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
- Căn cứ Điều 51 Luật Quản lý thuế 2019;
Điều 51 Luật Quản lý thuế 2019 quy định về xác định mức thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán thuế như sau: - Cơ quan thuế xác định số tiền thuế phải nộp theo phương pháp khoán thuế (sau đây gọi là mức thuế khoán) đối với trường hợp hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 51 Luật Quản lý thuế 2019. - Cơ quan thuế căn cứ vào tài liệu kê khai của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế, ý kiến của Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn để xác định mức thuế khoán. - Mức thuế khoán được tính theo năm dương lịch hoặc theo tháng đối với trường hợp kinh doanh theo thời vụ. Mức thuế khoán phải được công khai trong địa bàn xã, phường, thị trấn. Trường hợp có thay đổi ngành, nghề, quy mô kinh doanh, ngừng, tạm ngừng kinh doanh, người nộp thuế phải khai báo với cơ quan thuế để điều chỉnh mức thuế khoán. - Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chi tiết căn cứ, trình tự để xác định mức thuế khoán đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh. - Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có quy mô về doanh thu, lao động đáp ứng từ mức cao nhất về tiêu chí của doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thực hiện chế độ kế toán và nộp thuế theo phương pháp kê khai. |
- Căn cứ điểm a, điểm b khoản 1 Điều 2; khoản 2 Điều 2; Điều 6 Thông tư 92/2015/TT-BTC hướng dẫn thực hiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh; hướng dẫn thực hiện một số nội dung sửa đổi, bổ sung về thuế thu nhập cá nhân quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế 71/2014/QH13 và Nghị định 12/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế;
- Căn cứ khoản 2, khoản 4, khoản 6 Điều 3; khoản 2 Điều 4; các Điều 5, 7, 10, 11 và 13 Thông tư 40/2021/TT-BTC hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh;
- Căn cứ khoản 1 Điều 1 Thông tư 100/2021/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 40/2021/TT-BTC hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh;
- Căn cứ khoản 3, khoản 4 Điều 91 Luật Quản Lý Thuế 2019; khoản 1, Điều 4 Nghị định 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ;
- Căn cứ Điều 142, 143 Luật Quản lý thuế 2019; Điều 16, 17 Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn;
- Căn cứ Điều 200 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung 2017);
- Căn cứ Điều 50 Luật Quản lý thuế 2019; Điều 14, Điều 15 Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế 2019;
Với thông tin theo Cục Thuế báo cáo, Tổng cục Thuế đề nghị Cục Thuế Thành phố Hải Phòng:
(1) Căn cứ các quy định pháp luật nêu trên và tình hình thực tế quản lý, Cục Thuế TP. Hải Phòng xác định phương pháp nộp thuế, nghĩa vụ khai thuế, nộp thuế của hộ kinh doanh theo đúng quy định.
(2) Đề nghị Cục Thuế TP.Hải Phòng căn cứ vào kết quả xác định nghĩa vụ khai, nộp của cá nhân kinh doanh theo điểm 1 nêu trên, hồ sơ, tài liệu liên quan do cơ quan chức năng (cơ quan cảnh sát điều tra,...) cung cấp (nếu có) và Điều 200 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung 2017) và pháp luật thuế, pháp luật quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh để xác định về hành vi vi phạm của hộ kinh doanh.
Xem thêm tại Công văn 2365/TCT-DNNCN ban hành ngày 04/6/2024.