Người sử dụng hình thức lừa đảo tài sản qua mạng dưới hai triệu đồng thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Cho tôi hỏi là người sử dụng hình thức lừa đảo tài sản qua mạng dưới hai triệu đồng thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Người phạm tội khi sử dụng hình thức lừa đảo tài sản qua mạng dưới hai triệu đồng bị phạt tù 2 năm được đương nhiên xóa án tích khi nào? Câu hỏi của anh L.V.L đến từ Bắc Giang.

Người sử dụng hình thức lừa đảo tài sản qua mạng dưới hai triệu đồng thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật hình sự 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
...
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Theo quy định nêu trên, người thông qua hình thức lừa đảo tài sản qua mạng phạm tội lừa đảo tài sản của người khác dưới 2.000.000 đồng vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm nếu thuộc các trường hợp sau:

(1) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản.

(2) Chưa được xóa án tích đối với các tội sau:

- Cướp tài sản,

- Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản,

- Tội cưỡng đoạt tài sản,

- Tội cướp giật tài sản,

- Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản,

- Tội trộm cắp tài sản,

- Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,

- Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

(3) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

(4) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

Bên cạnh đó, người phạm tội còn thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Người sử dụng hình thức lừa đảo tài sản qua mạng dưới hai triệu đồng thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Người sử dụng hình thức lừa đảo tài sản qua mạng dưới hai triệu đồng thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? (Hình từ Internet)

Người phạm tội khi sử dụng hình thức lừa đảo tài sản qua mạng dưới hai triệu đồng bị phạt tù 2 năm được đương nhiên xóa án tích khi nào?

Người phạm tội có thể được đương nhiên xóa án tích theo quy định về xóa án tích tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

Đương nhiên được xóa án tích
...
2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
...

Như vậy, người phạm tội khi sử dụng hình thức lừa đảo tài sản qua mạng dưới hai triệu đồng bị phạt tù 2 năm được đương nhiên xóa án tích khi đã chấp hành xong hình phạt chính và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong 2 năm.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người phạm tội lừa đảo tài sản qua mạng dưới hai triệu đồng bị phạt tù 2 năm là bao lâu?

Thời hiệu thi hành bản án hình sự được quy định tại Điều 60 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

Thời hiệu thi hành bản án
1. Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.
2. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người bị kết án được quy định như sau:
a) 05 năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ 03 năm trở xuống;
b) 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 03 năm đến 15 năm;
c) 15 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 15 năm đến 30 năm;
d) 20 năm đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình.
3. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với pháp nhân thương mại là 05 năm.

Như vậy, người phạm tội lừa đảo tài sản qua mạng dưới hai triệu đồng bị phạt tù 2 năm có thời hiệu thi hành bản án hình sự là 05 năm.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Lừa đảo qua mạng

Nguyễn Bình An

Lừa đảo qua mạng
Căn cứ pháp lý
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về Lừa đảo qua mạng có thể đặt câu hỏi tại đây.

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào