Nguyên đơn là bà Bùi Thị Dực (ủy quyền cho con gái là bà Nguyễn Thị Màu) kiện đòi lại đất từ hộ ông Nguyễn Văn Việt. Bà Dực cho rằng năm 1981 bà cho chị mình (là mẹ ông Việt) mượn 250m2 đất cất nhà ở và có nói sẽ cho ở đến hết đời mới trả lại. Sau đó mẹ ông Việt có đào mương đắp nền, chiếm thêm phần đất xung quanh nên diện tích hiện nay lên tới 1.330m2. Năm 1993 mẹ ông Việt qua đời.
Năm 1995 khi có chủ trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy đỏ) mới, bà Dực nói đã kê khai cả phần đất cho mượn nhưng không hiểu sai sót thế nào nên lúc nhận sổ đỏ không có phần diện tích đất này. Đến ngày 23-3-2002, khi biết ông Việt đã được cấp giấy đỏ toàn bộ diện tích 1.330m2 nên bà Dực phát đơn khởi kiện đòi lại.
Tuy nhiên phía ông Việt lại nói khác, cụ thể là trước đây cha ông cần tiền uống rượu nên lén bán 2.000m2 đất cho bà Dực. Mẹ ông phát hiện đã xin bà Dực cho chuộc lại, nhưng do trên phần đất đó đã cất nhà nên bà Dực hứa chỉ trả lại hơn 1.000m2 đất ở chỗ khác. Từ năm 1981 mẹ ông chuyển đất ruộng thành đất vườn để trồng cây ăn trái trên diện tích hơn 1.000m2 đất này. Sau khi đăng ký kê khai, ông Việt đã được cấp giấy đỏ vào năm 1997.
Ông Nguyễn Văn Thông, con rể ông Việt, đứng trên nền đất đang tranh chấp với bản trích lục bản đồ đất đai - Ảnh: Mễ Thuận |
Tòa huyện xử thắng, tòa tỉnh xử thua
Trong phiên tòa sơ thẩm lần 1, TAND huyện Mỏ Cày (nay là huyện Mỏ Cày Nam) cho rằng những lời trình bày của cả nguyên đơn và bị đơn đều không có văn bản pháp lý. Mặc dù ông Việt trưng ra một tờ giấy viết tay giao kèo việc đổi đất giữa mẹ ông và bà Dực, nhưng do bà Dực không biết chữ, chỉ đánh dấu chéo và tờ giấy này không có xác nhận của chính quyền nên không có giá trị pháp lý.
TAND huyện Mỏ Cày cho rằng từ năm 1981 ông Việt và mẹ đã cất nhà, lập vườn trên diện tích đất này nhưng phía bà Dực không có ý kiến gì. Đến lúc kê khai đất để cấp giấy đỏ bà Dực không kê khai phần đất này càng chứng tỏ bà Dực mặc nhiên bỏ qua quyền sử dụng đất của mình. Ngoài ra trong quá trình khởi kiện ông Việt, bà Dực có mâu thuẫn về lời khai diện tích đất cho mượn, lúc thì 250m2, lúc thì 450m2, có lúc lại là 1.330m2 nên tòa quyết định bác đơn khởi kiện của bà Dực.
Bà Dực kháng cáo, TAND tỉnh Bến Tre mở phiên phúc thẩm ngày 25-8-2004. TAND tỉnh Bến Tre căn cứ vào việc bên nguyên và bị đơn đều xác nhận trước tòa về nguồn gốc đất sâu xa là của bà Dực. Và một chứng cứ là UBND xã Hương Mỹ đã có văn bản thừa nhận sai sót và động viên ông Việt trả đất lại cho bà Dực. Từ đó TAND tỉnh xử bà Dực thắng kiện.
Ông Việt khiếu nại và chánh án TAND tỉnh Bến Tre đề nghị TAND tối cao kháng nghị bản án. Hội đồng giám đốc thẩm TAND tối cao ngày 22-5-2006 quyết định hủy án, giao hồ sơ về cho TAND huyện Mỏ Cày xử lại. Quyết định nêu rõ: "Việc tòa sơ thẩm chỉ căn cứ vào việc ông Việt đã được cấp giấy đỏ để bác yêu cầu của bà Dực, còn tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào nguồn gốc thửa đất để buộc ông Việt trả đất cho bà Dực là chưa đủ căn cứ".
Vẫn... bất phân thắng bại!
Trong số các phiên tòa sau đó, phiên tòa sơ thẩm (lần 3) ngày 19-4-2011 là có làm rõ thêm tình tiết năm 1985 toàn bộ đất của bà Dực được đưa vào tập đoàn, sau đó tập đoàn tan rã, bà Dực cũng không đăng ký kê khai phần đất cho mượn... Với những căn cứ như thế, TAND huyện Mỏ Cày lần thứ ba tuyên bác đơn kiện của bà Dực. Tuy thế, bà Dực tiếp tục kháng cáo.
Ngày 11-7-2011, TAND tỉnh Bến Tre xử phiên phúc thẩm thứ ba, nhưng hội đồng xét xử đã tuyên bố hoãn phiên tòa. Lý do là trong đơn kiện bà Dực đòi ông Việt trả 1.330m2, nhưng qua đo đạc từ phía đội thi hành án của TAND tỉnh thì diện tích đất trên thực tế lại là 1.440m2. Kết quả xử án còn bỏ ngỏ nhưng ông Nguyễn Văn Thông - con rể ông Việt, được ông Việt ủy quyền tham gia vụ kiện - bước ra phòng xử với tiếng thở dài, nói: "Kinh nghiệm cho thấy chúng tôi chưa bao giờ thắng ở cấp phúc thẩm!".
Diễn tiến các phiên tòa * Phiên tòa sơ thẩm (lần 1) ngày 22-3-2004 của TAND huyện Mỏ Cày: ông Việt thắng kiện. Tòa căn cứ thực tế ông Việt canh tác ổn định và đã đăng ký quyền sử dụng đất từ năm 1995 và được cấp giấy chứng nhận vào năm 1997. * Phiên tòa phúc thẩm (lần 1) ngày 27-8-2004 của TAND tỉnh Bến Tre: ông Việt thua kiện, căn cứ vào việc đôi bên cùng thừa nhận nguồn gốc đất sâu xa là của bà Dực, và TAND tỉnh cho rằng UBND xã Hương Mỹ có sai sót trong khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Việt. * Giám đốc thẩm (lần 1) của TAND tối cao ngày 22-5-2006, hủy án, yêu cầu xử lại sơ thẩm và cần làm rõ việc UBND xã Hương Mỹ có sai sót hay không. * Phiên tòa sơ thẩm (lần 2) ngày 29-6-2006: ông Việt thắng kiện khi đưa ra chứng cứ cho thấy UBND xã Hương Mỹ đã thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Việt đúng trình tự theo Luật đất đai năm 1993. * Phiên tòa phúc thẩm (lần 2) ngày 5-2-2007: xử ông Việt thua kiện với lý do đôi bên cùng thừa nhận nguồn gốc đất sâu xa là của bà Dực, dù bà Dực không đưa ra chứng cứ đã cho mẹ con ông Việt mượn đất. * Giám đốc thẩm (lần 2) ngày 26-5-2010: lại hủy án, yêu cầu xử lại sơ thẩm và cần làm rõ lý do vì sao bà Dực không đăng ký phần đất đang tranh chấp vào thời điểm năm 1995. * Phiên tòa sơ thẩm (lần 3) ngày 19-4-2011: ông Việt thắng kiện khi bổ sung chi tiết là có thời gian phần đất này đã được đưa vào tập đoàn quản lý. Năm 1985, khi tập đoàn tan rã, bà Dực vẫn không kê khai xem như bà mặc nhiên đánh mất quyền quản lý và sử dụng dù trước đó đất đó có là của bà. * Phiên tòa phúc thẩm (lần 3) ngày 11-7: bị tạm hoãn đến nay. |
Theo Tuổi Trẻ