Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền (Hình từ Internet)
Theo khoản 15 Điều 3 Nghị định 39/2024/NĐ-CP, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể là hoạt động thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm sức sống của di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm việc kiểm kê, nhận diện, tư liệu hóa, nghiên cứu, gìn giữ, phát huy, thực hành, truyền dạy, giáo dục trong hoặc ngoài nhà trường cũng như việc phục hồi các khía cạnh khác nhau của di sản. Việc bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền được đặt ra tại Điều 20 Luật Di sản văn hóa 2001: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể, ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất truyền”.
Căn cứ Điều 12 Nghị định 39/2024/NĐ-CP quy định cụ thể về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền như sau:
(1) Di sản văn hóa phi vật thể được xác định là có nguy cơ mai một, thất truyền khi có một hoặc một số các tiêu chí sau đây:
- Sự suy giảm nghiêm trọng về số lượng và chất lượng nghệ nhân, người thực hành và thế hệ kế cận trong cộng đồng chủ thể;
- Sự suy giảm và biến đổi nghiêm trọng những các biểu đạt văn hóa, các bài bản, công cụ, hiện vật và đồ tạo tác liên quan;
- Sự biến đổi, thu hẹp thậm chí biến mất các không gian thực hành di sản văn hóa phi vật thể;
- Sự thay đổi điều kiện thực hành và hình thức thực hành di sản do biến đổi khí hậu, thiên tai, đô thị hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa dẫn đến biến đổi ý nghĩa và chức năng xã hội của di sản văn hóa phi vật thể;
(2) Căn cứ xác định di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền thuộc Danh mục kiểm kê hàng năm do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định:
- Căn cứ các tiêu chí quy định tại Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể 2003 đối với di sản đăng ký vào Danh sách cần bảo vệ khẩn cấp;
- Căn cứ kết quả kiểm kê thực trạng thực hành di sản văn hóa phi vật thể so với thời điểm được UNESCO ghi danh hoặc đưa vào Danh mục của quốc gia;
- Căn cứ đề xuất của cộng đồng chủ thể di sản văn hóa phi vật thể.
(3) Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo cơ quan chức năng về di sản văn hóa triển khai ngay lập tức các biện pháp, nhiệm vụ bảo vệ khẩn cấp gồm:
- Tư liệu hóa các biểu đạt, thực hành và các bài bản của di sản văn hóa phi vật thể;
- Phục hồi không gian thực hành di sản và môi trường liên quan;
- Phục hồi các tập tục, biểu đạt và các thực hành;
- Hỗ trợ nghệ nhân, người thực hành tổ chức truyền dạy;
- Hỗ trợ các cá nhân trong cộng đồng theo học;
- Hỗ trợ cộng đồng trang bị, chế tác công cụ, đồ tạo tác liên quan;
- Hỗ trợ cộng đồng chủ thể thực hành và duy trì thực hành;
- Các biện pháp bảo vệ khác theo đề xuất của cộng đồng, đảm bảo các nguyên tắc quy định tại Điều 4 và Điều 5 Nghị định 39/2024/NĐ-CP và phù hợp từng loại hình di sản;
- Xây dựng, tổ chức thực hiện đề án và có văn bản báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt kinh phí và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ khẩn cấp;
- Có văn bản gửi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để được kịp thời hướng dẫn, phối hợp thực hiện; đề nghị UNESCO hỗ trợ trong trường hợp cần thiết.
(4) Kinh phí bảo vệ khẩn cấp di sản có nguy cơ mai một, thất truyền được đảm bảo từ nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn kinh phí hợp pháp khác (theo khoản 2 Điều 17 Nghị định 39/2024/NĐ-CP).
Trần Trọng Tín