Vốn điều lệ của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam là bao nhiêu? (Hình từ Internet)
Về vấn đề này, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT giải đáp như sau:
Tổng công ty Đường sắt Việt Nam là công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, được chuyển đổi từ công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu theo Quyết định 973/QĐ-TTg năm 2010.
Cụ thể, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ, hoạt động phù hợp với Luật đường sắt, Luật doanh nghiệp, Luật quản lý, sử dụng vốn, các quy định của pháp luật có liên quan và Điều lệ ban hành kèm theo Nghị định 11/2018/NĐ-CP.
(Điểm a khoản 1 Điều 1 và Khoản 1 Điều 3 Điều lệ ban hành kèm theo Nghị định 11/2018/NĐ-CP)
Vốn điều lệ của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam là số vốn do chủ sở hữu đầu tư và ghi tại Điều lệ của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.
Trong đó, vốn điều lệ của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam là: 3.250.000.000.000 VND (Bằng chữ: Ba nghìn hai trăm năm mươi tỷ đồng).
Trường hợp cần điều chỉnh, bổ sung thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định và việc điều chỉnh vốn điều lệ của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam thực hiện theo quy định của pháp luật.
(Điểm b khoản 1 Điều 1 và Khoản 1 Điều 3 Điều lệ ban hành kèm theo Nghị định 11/2018/NĐ-CP)
Các ngành, nghề kinh doanh của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam bao gồm:
- Ngành, nghề kinh doanh chính: Kinh doanh kết cấu hạ tầng đường sắt; quản lý bảo trì, khai thác kết cấu hạ tầng đường sắt; cung cấp dịch vụ điều hành giao thông vận tải đường sắt quốc gia; kinh doanh phương tiện vận tải máy móc, thiết bị thực hiện việc bảo trì, xây dựng kết cấu hạ tầng đường sắt; kinh doanh vận tải đường sắt, vận tải đa phương thức trong nước, liên vận quốc tế và dịch vụ hỗ trợ các phương thức vận tải;
- Ngành, nghề có liên quan đến ngành nghề kinh doanh chính: Tư vấn, khảo sát, thiết kế, xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, công nghiệp và dân dụng; tư vấn thiết kế, chế tạo, đóng mới, lắp ráp, hoán cải và sửa chữa các phương tiện, thiết bị, sản xuất phụ tùng, vật tư chuyên ngành đường sắt và các sản phẩm cơ khí.
(Khoản 3 Điều 4 Điều lệ ban hành kèm theo Nghị định 11/2018/NĐ-CP)
Trong hoạt động kinh doanh, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
- Kinh doanh đúng ngành, nghề đã đăng ký, đảm bảo chất lượng sản phẩm và dịch vụ do Tổng công ty Đường sắt Việt Nam thực hiện theo tiêu chuẩn đã đăng ký,
- Đổi mới, hiện đại hóa công nghệ và phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
- Bảo đảm quyền và lợi ích của người lao động và quyền tham gia quản lý Tổng công ty Đường sắt Việt Nam của người lao động theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính, báo cáo thống kê theo quy định của pháp luật và theo yêu cầu của chủ sở hữu.
- Tuân thủ các quy định của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, văn hóa, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
- Chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu về việc sử dụng vốn đầu tư để thành lập hoặc đầu tư vào doanh nghiệp khác.
- Chịu sự giám sát của Bộ Giao thông vận tải trong thực hiện các quy định về thang, bảng lương; đơn giá tiền lương, chế độ trả lương đối với người lao động, Chủ tịch, thành viên Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và các cán bộ quản lý khác.
- Chịu sự giám sát, kiểm tra của chủ sở hữu; chấp hành các quyết định về thanh tra của cơ quan tài chính và cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện việc quản lý rủi ro và bảo hiểm cho tài sản, trách nhiệm, con người của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam trong sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam phải thực hiện dự án đầu tư, mua, bán tài sản, hợp đồng vay, cho vay của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam theo đúng chủ trương được phê duyệt và quy định của pháp luật.
- Thực hiện các nghĩa vụ khác trong kinh doanh theo quy định của pháp luật.
(Điều 16 Điều lệ ban hành kèm theo Nghị định 11/2018/NĐ-CP)