Về phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự (Điều 1)
Bộ luật dân sự quy định về những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các quan hệ khác hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).
Về nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Điều 2-Điều 9)
Để bảo đảm thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự, góp phần hình thành chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, dự thảo Bộ luật quy định 8 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, bao gồm: (1) Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự; (2) Nguyên tắc bình đẳng; (3) Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; (4) Nguyên tắc thiện chí, trung thực; (5) Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp;(6) Nguyên tắc tôn trọng lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; (7) Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự; (8) Nguyên tắc hòa giải.
Việc quán triệt các nguyên tắc này góp phần bảo đảm tất cả quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp và pháp luật công nhận đều được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Về áp dụng pháp luật dân sự (Điều 10-Điều 13)
Để tạo cơ chế pháp lý đầy đủ cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, phát huy được vị trí, vai trò của Bộ luật dân sự, bảo đảm sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật dân sự và đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế và trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành, dự thảo Bộ luật dân sự quy định về việc áp dụng pháp luật dân sự, theo hướng: Bộ luật dân sự được xác định là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự; các luật khác điều chỉnh quan hệ trong các lĩnh vực dân sự cụ thể không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự; trường hợp trong các luật này không có quy định thì quy định của Bộ luật này được áp dụng;
Điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế phù hợp với Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được áp dụng trực tiếp hoặc theo nguyên tắc tương tự pháp luật để giải quyết các quan hệ dân sự;
Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy địnhthì áp dụng tập quán; trường hợp không có tập quán thì áp dụng tương tự pháp luật; trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự.
Về xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự (Điều 14-Điều 22)
Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, quy định của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền dân sự, dự thảo Bộ luật bổ sung các nguyên tắc chung về xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự.
Theo đó, cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình nhưng không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và không được vượt quá giới hạn thực hiện quyền dân sự được quy định tại Bộ luật này;
Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự để gây thiệt hại cho người khác; để vi phạm các nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của mình theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; để hạn chế cạnh tranh hoặc để thực hiện mục đích khác trái pháp luật;
Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân. Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài. Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định về áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công bằng được áp dụng để xem xét, giải quyết.
Về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự (Điều 23-Điều 119)
Dự thảo Bộ luật quy định cụ thể về địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân, việc tham gia quan hệ dân sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương, hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
Cụ thể, về cá nhân, dự thảo Bộ luật đã bổ sung nhiều cơ chế pháp
lý mới, hợp lý để bảo vệ tốt hơn quyền của những người yếu thế về năng lực hành
vi dân sự, đặc biệt là chế độ giám hộ đối với người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của
mình.
Về quyền nhân thân, bên cạnh việc quy định các quyền nhân thân cơ bản nhất của
cá nhân thì dự thảo Bộ luật bổ sung nguyên tắc: Ngoài các quyền nhân thân được
quy định tại Bộ luật dân sự, các quyền con người, quyền nhân thân khác về dân
sự đều được Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật;
Về pháp nhân, để cụ thể hóa nội dung, tinh thần của Hiến pháp về quyền lập hội, quyền tự do kinh doanh, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng… và để góp phần “hiện thực hóa” địa vị pháp lý của chủ thể này trong các quan hệ dân sự, dự thảo Bộ luật quy định mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác. Pháp nhân phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; việc đăng ký pháp nhân phải được công bố công khai. Đồng thời, để bao quát, dự báo được sự đa dạng của pháp nhân trong giao lưu dân sự, dự thảo Bộ luật quy định 2 loại pháp nhân cơ bản, đó là: (i) Pháp nhân thương mại (pháp nhân hoạt động vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận); (ii) Pháp nhân phi thương mại (pháp nhân hoạt động không vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và không phân chia lợi nhuận cho các thành viên);
Về sự tham gia của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, các cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương trong quan hệ dân sự, dự thảo Bộ luật quy định, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương bình đẳng với chủ thể khác là cá nhân, pháp nhân khi tham gia quan hệ dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật này. Đồng thời, dự thảo Bộ luật quy định những nội dung cơ bản về địa vị pháp lý, đại diện tham gia quan hệ dân sự, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự và về trách nhiệm trong quan hệ dân sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương với nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài;
Về sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự, dự thảo Bộ luật quy định hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thông qua cá nhân là người đại diện hoặc là thành viên của mình theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan. Các thành viên có thể thỏa thuận cử người đại diện tham gia, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự vì lợi ích chung. Địa vị pháp lý của hộ gia đình sử dụng đất được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai. Đồng thời, dự thảo Bộ luật quy định những nội dung cơ bản về tài sản chung, trách nhiệm dân sự của thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
Về tài sản (Điều 120-Điều 130)
Để bảo đảm tính bao quát, minh bạch, công khai, huy động và phát huy được hết các nguồn lực vật chất trong xã hội, dự thảo Bộ luật đã bổ sung quy định, theo đó, tài sản bao gồm bất động sản và động sản; tài sản có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác. Bất động sản phải được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và Luật đăng ký tài sản. Các thông tin về tài sản đã đăng ký phải được công khai. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể là đối tượng trong quan hệ dân sự, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền khác, trong đó, quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ được quy định trong Bộ luật này và pháp luật về sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất được quy định trong Bộ luật này và Luật đất đai.
Về giao dịch dân sự (Điều 131-Điều 145)
Dự thảo Bộ luật đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến các quy
định về giao dịch dân sự theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền tự do thể hiện ý chí,
sự an toàn pháp lý, sự ổn định của giao dịch, quyền, lợi ích của bên thiện chí,
bên ngay tình.
Cụ thể như: (1) Giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức nhưng
không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác và chủ thể giao dịch đã chuyển
giao vật, tiền hoặc đã thực hiện công việc thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực;
trường hợp này, theo yêu cầu của một hoặc các bên, cơ quan có thẩm quyền có
trách nhiệm hoàn tất thủ tục đối với giao dịch đó; (2) Quy định về giải quyết
hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu cũng được sửa đổi để bảo đảm công
bằng, phù hợp hơn với quyền, lợi ích của chủ thể xác lập giao dịch; (3) Quyền
của người thứ ba ngay tình được bảo vệ triệt để hơn theo nguyên tắc, trong
trường hợp đối tượng của giao dịch là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài
sản đó đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển
giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng
ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu, trừ
trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch
là do bị chiếm đoạt bất hợp pháp, ngoài ý chí của chủ sở hữu; việc chuyển giao
tài sản thông qua đấu giá hoặc căn cứ theo bản án, quyết định của cơ quan có
thẩm quyền cũng được bảo vệ...
Về đại diện (Điều 146-Điều 158)
Dự thảo Bộ luật đã có một số sửa đổi, bổ sung quy định về đại diện
nhằm tạo điều kiện pháp lý tốt hơn trong việc trợ giúp cá nhân, pháp nhân thực
hiện, bảo vệ các quyền dân sự của mình và hạn chế rủi ro pháp lý trong các quan
hệ dân sự.
Cụ thể là, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người được xác định
theo điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; pháp nhân
có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và pháp nhân có thể là người đại
diện theo ủy quyền cho các chủ thể khác; đại diện theo pháp luật có quyền
nhân danh bên được đại diện xác lập, thực hiện hành vi pháp lý phù hợp với
quyền, nghĩa vụ của đại diện theo pháp luật. Trường hợp pháp nhân có nhiều
đại diện theo pháp luật thì mỗi người có quyền đại diện cho pháp nhân
phù hợp với quyền, nghĩa vụ của mình. Giao dịch dân sự do bên đại diện xác
lập, thực hiện với bên thứ ba phù hợp với phạm vi quyền đại diện làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ của bên được đại diện. Bên đại diện có quyền xác lập, thực hiện
hành vi cần thiết tùy thuộc hoàn cảnh để đạt được mục đích phù hợp với phạm vi
quyền đại diện…
Về thời hiệu (Điều 164-Điều 177)
Để tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp và pháp luật công nhận đều được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm kịp thời, nâng cao trách nhiệm của Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền khác trong tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, sự ổn định của các quan hệ dân sự và để phù hợp hơn với bản chất pháp lý của thời hiệu, dự thảo Bộ luật quy định về thời hiệu theo nguyên tắc: cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu tòa án, trọng tài giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định, hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết yêu cầu của cá nhân, pháp nhân như quy định hiện hành, tòa án hoặc trọng tài vẫn thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự. Người được hưởng quyền dân sự có quyền từ chối việc hưởng quyền, người được miễn trừ nghĩa vụ dân sự có quyền từ chối việc miễn trừ nghĩa vụ, trừ trường hợp việc từ chối đó có mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ hoặc vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội.
Về thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác (Điều 179)
Để bảo đảm thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự về thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác, dự thảo Bộ luật quy định: (1) Việc xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản, trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác; (2) Trường hợp tài sản đã được chuyển giao trước thời điểm hợp đồng được giao kết thì quyền sở hữu và vật quyền khác được xác lập kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác; (3) Trường hợp luật quy định việc chuyển giao vật phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì thời điểm xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký, trừ trường hợp luật khác có quy định khác.
Về chiếm hữu (Điều 192-Điều 200)
Dự thảo Bộ luật bổ sung chế định chiếm hữu như là tình trạng pháp lý về việc cá nhân, pháp nhân nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Theo chế định này, người chiếm hữu tài sản được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng, người chiếm hữu là không ngay tình thì phải chứng minh. Người nào có tranh chấp với người chiếm hữu thì phải chứng minh rằng, người chiếm hữu không có quyền. Trường hợp một người có yêu cầu về quyền sở hữu hoặc các vật quyền khác đối với tài sản đang do người khác chiếm hữu thì cơ quan có thẩm quyền chỉ thụ lý giải quyết với điều kiện người đó phải chấm dứt hành vi vi phạm quyền của người chiếm hữu và khôi phục lại tình trạng ban đầu (nếu có). Quy định này sẽ góp phần bảo đảm trật tự xã hội, sự ổn định của giao dịch, giá trị kinh tế của tài sản, sự thiện chí trong quan hệ dân sự.
Về hình thức sở hữu (Điều 206, Điều 219-Điều 242)
Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và trên cơ sở vận dụng nguyên tắc việc xác định các hình thức sở hữu cần phải dựa vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu, dự thảo Bộ luật quy định: trong Bộ luật dân sự, hình thức sở hữu bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung. Sở hữu toàn dân là sở hữu đối với tài sản công, bao gồm đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý. Sở hữu riêng là sở hữu của một chủ thể, bao gồm cá nhân, pháp nhân. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với một tài sản.
Về quyền của cá nhân, pháp nhân không phải là chủ sở hữu tài sản (Điều 264-Điều 301)
Bên cạnh quyền sở hữu, dự thảo Bộ luật ghi nhận cụ thể một số
quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản như: (1) Quyền địa
dịch, (2) Quyền hưởng dụng, (3) Quyền bề mặt, (4) Quyền ưu tiên. Sự bổ sung này
có ý nghĩa quan trọng nhằm thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và nội dung,
tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân; về xây
dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế và điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng
các quy luật thị trường; về việc Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh
nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác yên tâm đầu tư, sản xuất, kinh
doanh; về nguyên tắc tài sản hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân đều được pháp
luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa...
Cụ thể, về quyền địa dịch, dự thảo Bộ luật quy định đây là một quyền được thực
hiện trên một bất động sản (gọi là bất động sản chịu địa dịch) nhằm phục vụ cho
việc khai thác một bất động sản khác (gọi là bất động sản hưởng địa dịch). Địa
dịch có thể được xác lập theo địa thế tự nhiên, thỏa thuận hoặc theo luật định.
Quyền địa dịch được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm nhu cầu hợp lý của việc
khai thác bất động sản hưởng địa dịch, phù hợp với mục đích sử dụng bất động
sản. Chủ sở hữu bất động sản hưởng địa địch không được sử dụng quyền địa dịch
trên bất động sản chịu địa dịch vượt quá nhu cầu hợp lý trong việc khai thác
bất động sản hưởng địa dịch. Chủ sở hữu bất động sản chịu địa dịch không được
thực hiện các hành vi ngăn cản hoặc làm cho việc thực hiện quyền địa dịch trở
nên khó khăn, dẫn đến việc không bảo đảm được nhu cầu hợp lý về sử dụng, khai
thác bất động sản hưởng địa dịch...;
Về quyền hưởng dụng, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, quyền hưởng dụng là một quyền mà chủ thể có quyền đó được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ vật thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác, với điều kiện việc thực hiện quyền này không được làm thay đổi tính chất, tính năng sử dụng của vật đó. Đối tượng của quyền hưởng dụng có thể là bất động sản và động sản. Quyền hưởng dụng được xác lập theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc hành vi pháp lý đơn phương. Thời hạn của quyền hưởng dụng do các bên thỏa thuận hoặc do luật định nhưng tối đa chỉ đến hết cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên;
Về quyền bề mặt, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, quyền bề mặt là quyền của chủ thể được sử dụng mặt đất, khoảng không trên mặt đất và lòng đất mà quyền sử dụng đất đó thuộc về người khác (Trong trường hợp bề mặt là mặt nước cũng áp dụng theo quy định này). Quyền bề mặt được xác lập theo thỏa thuận, theo cam kết đơn phương hoặc theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan. Đối tượng của quyền bề mặt có thể là vật cụ thể gắn với đất hoặc là phần không gian, theo đó vật gắn với đất sẽ được tạo lập. Vật cụ thể gắn với đất có thể là vật nằm trên bề mặt đất, nằm dưới mặt đất hoặc phần không gian trên mặt đất. Chủ thể quyền bề mặt có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với vật đó. Trong trường hợp đối tượng của quyền là phần không gian mà trong đó các vật gắn với đất có thể được tạo lập thì chủ sở hữu phần không gian có quyền xây dựng, trồng cây, canh tác và có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với vật mới được tạo ra;
Về quyền ưu tiên, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, quyền ưu tiên (còn gọi là đặc quyền lấy trước) là quyền của chủ thể có quyền lợi trong một quan hệ pháp luật được ưu tiên thanh toán trước các chủ thể có quyền khác. Quyền ưu tiên là một trong những loại vật quyền luật định, chỉ phát sinh trong một số trường hợp do luật quy định khi đáp ứng một số điều kiện nhất định. Đây là quyền đương nhiên được pháp luật bảo vệ, không phụ thuộc ý chí của các chủ thể khác;
Ngoài các vật quyền nêu trên được quy định trong Bộ luật dân sự thì các luật khác có liên quan cũng có thể quy định về các loại vật quyền khác theo yêu cầu của thực tiễn vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự(Điều 374 - Điều 386)
Dự thảo Bộ luật sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ nhằm bảo đảm sự an toàn, thông thoáng, lẽ công bằng trong các quan hệ dân sự cũng như trong giải quyết vụ việc dân sự.
Cụ thể, cá nhân, pháp nhân không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bị suy đoán là có lỗi và phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp chủ thể này có căn cứ được miễn trừ trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật dân sự;
Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để hạn chế thiệt hại có thể gây ra cho mình. Trong trường hợp người bị thiệt hại chậm trễ trong việc áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để giảm thiểu thiệt hại cho mình thì người gây thiệt hại có quyền yêu cầu giảm mức bồi thường tương ứng với mức thiệt hại mà lẽ ra người bị thiệt hại có thể hạn chế được;
Trường hợp việc không thực hiện đúng nghĩa vụ và thiệt hại gây ra là do một phần lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại có quyền yêu cầu giảm mức bồi thường tuỳ theo mức độ lỗi của người bị thiệt hại. Trong trường hợp bên vi phạm chứng minh được việc không thực hiện đúng nghĩa vụ là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc luật có quy định khác.
Về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 320 - Điều 373)
Dự thảo Bộ luật ghi nhận đầy đủ, rõ ràng và hợp lý hơn về những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sau đây: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh. Ví dụ, về cầm cố, thế chấp thì dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, bên cầm cố, bên thế chấp có quyền bán, trao đổi, tặng cho, thay thế tài sản cầm cố, thế chấp nếu có thỏa thuận với bên nhận cầm cố, nhận thế chấp hoặc tài sản cầm cố, thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc thuộc trường hợp khác theo quy định của luật. Trường hợp tài sản cầm cố, thế chấp được bán, trao đổi, tặng cho, thay thế thì bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng cho tài sản có nghĩa vụ phải giao tài sản theo yêu cầu của bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp. Trường hợp bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng cho, bên thuê, bên mượn không giao tài sản thì bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng cho, bên thuê, bên mượn phải giao tài sản theo thủ tục tố tụng rút gọn.
Về quy định chung về hợp đồng (Điều 407 - Điều 450)
Dự thảo Bộ luật quy định các điều khoản chung về hợp đồng, định hướng cho việc xây dựng các quy định về hợp đồng trong các luật khác có liên quan và đủ để áp dụng trong trường hợp các luật khác có liên quan thiếu quy định về hợp đồng. Ngoài ra, một số quy định mới phù hợp với thông lệ quốc tế, với thực tiễn nước ta đã được bổ sung, nhất là các quy định về điều kiện giao dịch chung, điều chỉnh hợp đồng khi có thay đổi hoàn cảnh, phụ lục hợp đồng, hủy bỏ và hậu quả của hủy bỏ hợp đồng,....
Về điều kiện giao dịch chung, dự thảo Bộ luật thừa nhận về điều kiện giao dịch chung theo hướng, đó là những quy định do bên đề nghị giao kết hợp đồng công bố áp dụng chung cho các bên tham gia hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận toàn bộ quy định đã được bên đề nghị đưa ra. Nếu trong điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi của bên kia thì quy định này không có hiệu lực.
Dự thảo Bộ luật cũng cho phép trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi dẫn đến quyền, lợi ích của một trong các bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì cho phép các bên điều chỉnh hợp đồng theo những điều kiện được quy định; một bên chỉ có thể hủy bỏ hợp đồng nếu bên kia vi phạm nghiêm trọng hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật quy định khác.
Về các hợp đồng thông dụng (Điều 451 - Điều 594)
Dự thảo Bộ luật chỉ quy định về những hợp đồng mang tính đặc trưng và đại diện cho quan hệ pháp luật dân sự. So với Bộ luật dân sự năm 2005, dự thảo Bộ luật không quy định về hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng thuê nhà ở, hợp đồng bảo hiểm. Những hợp đồng này đã được quy định trong Luật nhà ở, Luật kinh doanh bảo hiểm. Bên cạnh đó, dự thảo Bộ luật cũng bổ sung một loại hợp đồng mới là hợp đồng hợp tác để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về hợp tác trong sản xuất, kinh doanh. Đối với một số hợp đồng cơ bản như hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê tài sản... thì dự thảo Bộ luật bổ sung nhiều quy định để bảo đảm các quy định này có thể áp dụng cho các hợp đồng có liên quan và cũng bao quát được những dạng thức hợp đồng phái sinh, đặc thù có thể phát sinh trong tương lai, cụ thể:
Về mua bán tài sản, dự thảo Bộ luật quy định, tài sản được quy định tại Bộ luật này đều có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán. Trong trường hợp theo quy định của luật, tài sản bị cấm hoặc bị hạn chế chuyển nhượng thì tài sản bán phải phù hợp với các quy định đó. Tài sản bán phải thuộc sở hữu của người bán hoặc người bán có quyền bán tài sản đó. Khi các bên không có thoả thuận, thỏa thuận không rõ ràng về chất lượng tài sản mua bán thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn đã được công bố theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo tiêu chuẩn ngành nghề. Trong trường hợp không có các tiêu chuẩn này thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn thông thường hoặc theo tiêu chuẩn riêng phù hợp với mục đích giao kết hợp đồng và theo quy định của Luật bảo vệ người tiêu dùng...;
Về vay tài sản, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, lãi suất trong hợp đồng vay do các bên thỏa thuận hoặc do luật định. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại vay tương ứng, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất thì lãi suất được xác định theo lãi suất luật định, nếu không có lãi suất luật định thì coi như hợp đồng vay không có lãi, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác;
Về hợp đồng hợp tác, dự thảo Bộ luật quy định, hợp đồng hợp tác là hợp đồng, theo đó nhiều cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thỏa thuận về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản và được công chứng hoặc chứng thực.
Về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Điều 605-Điều 629)
Dự thảo Bộ luật quy định người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt hại để thay thế cho quy định hiện hành đang tạo gánh nặng chứng minh của người bị thiệt hại. Theo đó, người nào có hành vi trái pháp luật xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Dự thảo Bộ luật bổ sung quy định, theo đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản có nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại về những thiệt hại do tài sản của mình gây ra.
Về thời hiệu thừa kế (Điều 644)
Để khắc phục những bất cập về thời hiệu khởi kiện thừa kế trong Bộ luật dân sự hiện hành, phù hợp với quyền của người thừa kế, người khác có liên quan đến di sản và những đặc thù về văn hóa, tính chất của di sản, dự thảo Bộ luật quy định thời hiệu thừa kế theo hướng:
Thứ nhất, thời hạn yêu cầu chia di sản là ba mươi năm đối với bất động sản, mười năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này mà không có yêu cầu chia di sản thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Thứ hai, trường hợp không có yêu cầu chia di sản và không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau: Trường hợp di sản đang được người khác chiếm hữu hoặc được lợi một cách ngay tình, liên tục, công khai thì người này được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đối với quyền sở hữu có đối tượng là bất động sản hoặc động sản được quy định tại Bộ luật dân sự; Trường hợp không có người khác chiếm hữu hoặc được lợi về di sản hoặc có người này nhưng việc chiếm hữu của họ không có căn cứ pháp luật, không ngay tình thì di sản thuộc về Nhà nước.
Về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 687-Điều 708)
Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được dự thảo Bộ luật quy định tại Phần thứ năm với những nội dung mới, chủ yếu như sau: Về phạm vi áp dụng, trong trường hợp có quy định khác nhau giữa Phần này và luật khác có liên quan về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì áp dụng quy định của luật khác có liên quan với điều kiện các quy định của luật đó không trái với các nguyên tắc xác định và áp dụng pháp luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định trong Bộ luật dân sự;
Về nguyên tắc xác định và áp dụng pháp luật, nguyên tắc các bên được lựa chọn pháp luật áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ các trường hợp đã có quy định cụ thể tại Phần này hoặc luật khác có liên quan. Trong trường hợp các bên không lựa chọn pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan của Việt Nam không có quy định về việc xác định pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước nơi có quan hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự đó được áp dụng...;
Bên cạnh đó, dự thảo Bộ luật sửa đổi, bổ sung làm phong phú hơn hệ thuộc xác định pháp luật áp dụng, làm rõ thứ tự ưu tiên áp dụng các hệ thuộc, đặc biệt làm hệ thuộc luật áp dụng đối với hợp đồng, thừa kế, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các hệ thuộc liên quan đến nhân thân theo hướng tiếp thu có chọn lọc các tiêu chuẩn, chuẩn mực pháp lý chung đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi.