Ngày 14/5/2023, Chính phủ ban hành Nghị định 24/2023/NĐ-CP tăng mức lương cơ sở lên 1,8 triệu đồng/tháng từ ngày 01/7/2023 (hiện hành là 1,49 triệu đồng/tháng).
Mức lương cơ sở dùng làm căn cứ:
+ Tính mức lương trong các bảng lương, mức phụ cấp và thực hiện các chế độ khác theo quy định của pháp luật đối với các đối tượng quy định;
+ Tính mức hoạt động phí, sinh hoạt phí theo quy định của pháp luật;
+ Tính các khoản trích và các chế độ được hưởng theo mức lương cơ sở.
Mức lương cơ sở tăng sẽ kéo theo việc tăng hàng loạt mức hưởng BHXH, BHYT cho người lao động, cụ thể như sau:
Theo quy định tại Điều 29 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau một ngày bằng 30% mức lương cơ sở.
Do đó, từ ngày 01/7/2023, mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau một ngày bằng 540.000 đồng (hiện hành là 447.000 đồng).
Theo quy định tại Điều 38 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ sinh con hoặc tháng người lao động nhận nuôi con nuôi. Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia BHXH thì cha được trợ cấp một lần bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con.
Do đó, từ ngày 01/7/2023, lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 3.600.000 đồng (hiện hành là 2.980.000 đồng).
Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia BHXH thì cha được trợ cấp một lần bằng 3.600.000 đồng (hiện hành là 2.980.000 đồng) cho mỗi con.
Mức trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi từ ngày 01/7/2023 là 3.600.000 đồng cho mỗi con (Hình từ internet)
Theo quy định tại Điều 41 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một ngày bằng 30% mức lương cơ sở.
Do đó, từ ngày 01/7/2023, mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một ngày bằng 540.000 đồng (hiện hành là 447.000 đồng).
(i) Mức trợ cấp một lần với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% được thực hiện như sau:
- Suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng trợ cấp một lần bằng 9.000.000 đồng (hiện hành là 7.450.000 đồng), sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 900.000 đồng (hiện hành là 745.000 đồng);
- Ngoài mức trợ cấp nêu trên, còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, từ một năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3 tháng tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
Căn cứ: Điều 48 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015
(ii) Mức trợ cấp hằng tháng với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên được thực hiện như sau:
- Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng trợ cấp hàng tháng bằng bằng 540.000 đồng (hiện hành là 447.000 đồng), sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 36.000 đồng (hiện hành là 29.800 đồng);
- Ngoài mức trợ cấp nêu trên, hằng tháng còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3% mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
Trường hợp, người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống hoặc mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai chi hoặc bị bệnh tâm thần thì ngoài mức hưởng nêu trên, hằng tháng còn được hưởng trợ cấp phục vụ bằng 1.800.000 đồng (hiện hành là 1.490.000 đồng).
Căn cứ: Điều 49 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015
(iii) Người lao động đang làm việc bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc bị chết trong thời gian điều trị lần đầu do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc bị chết trong thời gian điều trị thương tật, bệnh tật mà chưa được giám định mức suy giảm khả năng lao động thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng 64.800.000 đồng (hiện hành là 53.640.000 đồng).
Căn cứ: Điều 53 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015
(iv) Mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật, bệnh tật một ngày bằng 540.000 đồng (hiện hành là 447.000 đồng).
Căn cứ: Điều 54 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015
Mức lương hưu hằng tháng thấp nhất của người lao động tham gia BHXH bắt buộc đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 54 và Điều 55 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 bằng 1.800.000 đồng (hiện hành là 1.490.000 đồng), trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 2 và khoản 3 Điều 54 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014.
Căn cứ: Khoản 5 Điều 56 Luật Bảo hiểm xã hội 2014
Theo quy định tại Điều 66 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì người lo mai táng được nhận một lần trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức lương cơ sở tại tháng mà người thuộc một trong các trường hợp sau đây chết:
- Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 đang đóng BHXH hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng BHXH mà đã có thời gian đóng từ đủ 12 tháng trở lên;
- Người lao động chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc chết trong thời gian điều trị do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- Người đang hưởng lương hưu; hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng đã nghỉ việc.
Do đó, tư ngày 01/7/2023, mức trợ cấp mai táng sẽ bằng 18.000.000 đồng (hiện hành là 14.900.000 đồng).
Tăng hàng loạt mức hưởng BHXH, BHYT từ ngày 01/7/2023 (Hình từ internet)
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 68 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì mức trợ cấp tuất hằng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức lương cơ sở; trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hằng tháng bằng 70% mức lương cơ sở.
Do đó, từ ngày 01/7/2023, mức trợ cấp tuất hằng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 900.000 đồng (hiện hành là 745.000 đồng); trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hằng tháng bằng 1.260.000 đồng (hiện hành là 1.043.000 đồng).
Người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện có từ đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên thì điều kiện, mức hưởng lương hưu thực hiện theo chính sách BHXH bắt buộc; mức lương hưu hằng tháng thấp nhất bằng 1.800.000 đồng (hiện hành là 1.490.000 đồng), trừ đối tượng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014.
Căn cứ: Điểm a Khoản 1 Điều 71 Luật Bảo hiểm xã hội 2014
Theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 14 Nghị định 146/2018/NĐ-CP thì người tham gia bảo hiểm y tế khi đi khám bệnh, chữa bệnh theo quy định tại các Điều 26, 27 và 28 của Luật bảo hiểm y tế; khoản 4 và 5 Điều 22 của Luật bảo hiểm y tế thì được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với trường hợp chi phí cho một lần khám bệnh, chữa bệnh thấp hơn 15% mức lương cơ sở.
Do đó, từ ngày 01/7/2023, người có thẻ BHYT đi khám, chữa bệnh đúng quy định, có tổng chi phí một lần khám, chữa bệnh thấp hơn 270.000 đồng (hiện hành là thấp hơn 223.500 đồng) không phải thực hiện cùng chi trả.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở.
Do đó, từ ngày 01/7/2023 thì miền lương tháng đóng BHXH bắt buộc tối đa bằng 36.000.000 (hiện hành là 29.800.000 đồng).
Mức đóng tăng, đồng nghĩa với mức hưởng các chế độ BHXH của mình lao động sau nay như lương hưu, BHXH một lần cũng sẽ cao hơn.